Giải SBT Ngữ Văn lớp 6 KNTT Bài 3: Yêu thương và chia sẻ có đáp án
-
163 lượt thi
-
55 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc lại văn bản Gió lạnh đầu mùa trong SGK (tr. 67 - 72) và trả lời các câu hỏi:
Sắp xếp lại các sự việc sau theo trình tự diễn biến của câu chuyện:
A. Hai chị em Sơn ra xóm chợ chơi và thấy những người bạn ở xóm chợ nghèo mặc những bộ quần áo bạc, vá nhiều chỗ; đặc biệt em Hiên chỉ mặc manh áo rách tả tơi, co ro chịu rét.
B. Mùa đông giá lạnh đã đến, hai chị em Sơn và Lan được mặc những bộ quần áo đẹp và ấm áp.
C. Chuyện cho áo đến tai người thân. Lo sợ bị mẹ mắng, Sơn và Lan đi tìm Hiên để đòi áo.
D. Chị Lan hăm hở về lấy áo cho Hiên, Sơn thấy lòng ấm áp, vui vui.
E. Sơn thấy động lòng thương Hiên, hỏi chị về việc đem cho Hiên cái áo bông cũ của người em đã mất.
F. Mẹ Hiên sang nhà Sơn trả lại chiếc áo bông.
G. Biết hoàn cảnh của gia đình Hiên, mẹ Sơn đã cho mẹ Hiên mượn tiền để may áo cho con.
Câu 2:
Câu 3:
Câu 4:
Câu 5:
Câu 6:
Đọc lại văn bản Cô bé bán diêm (từ Em quẹt que diêm thứ hai đến của em bé bán diêm) trong SGK (tr. 63) và trả lời các câu hỏi:
Xác định ngôi kể của người kể chuyện trong đoạn trích.
Câu 7:
Câu 8:
Câu 9:
Câu 10:
Câu 11:
a. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên.
b. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn.
a. Cụm danh từ: que diêm thứ hai.
- Trung tâm của cụm danh từ: que diêm.
- Phần phụ sau: thứ hai, bổ sung cho danh từ trung tâm đặc điểm, hạn định danh từ ra khỏi sự vật cùng loại.
b. Cụm danh từ: một tấm rèm bằng vải màn.
- Trung tâm của cụm danh từ: tấm rèm.
- Phần phụ trước: một, chỉ số lượng.
- Phần phụ sau: bằng vải màn, nêu đặc điểm, chất liệu của tấm rèm.
Câu 13:
Đọc lại văn bản Cô bé bán diêm (từ Em quẹt que diêm thứ ba đến Họ đã về chầu Thượng đế) trong SGK (tr. 63 - 64) và trả lời các câu hỏi:
Khi quẹt que diêm thứ ba, cô bé bán diêm đã “nhìn thấy” những hình ảnh gì?
Câu 14:
Câu 15:
Câu 16:
Câu 17:
Câu 18:
Tìm cụm danh từ trong những câu sau. Xác định trung tâm của cụm danh từ và những ý nghĩa mà trung tâm đó được bổ sung.
a. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en.
b. Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao.
a. Cụm danh từ: một cây thông Nô-en.
- Trung tâm của cụm danh từ: cây thông.
- Phần phụ trước: một, bổ sung cho danh từ trung tâm ý nghĩa về số lượng.
- Phần phụ sau: Nô-en, bổ sung cho danh từ trung tâm đặc điểm, hạn định danh từ khỏi sự vật cùng loại.
b. Cụm danh từ: tất cả những que diêm còn lại trong bao.
- Trung tâm của cụm danh từ: que diêm.
- Phần phụ trước: tất cả, những, bổ sung cho danh từ trung tâm ý nghĩa về tổng lượng, số lượng.
- Phần phụ sau: còn lại trong bao, nêu đặc điểm, hạn định danh từ khỏi sự vật cùng loại.
Câu 20:
Câu 21:
Câu 22:
Câu 23:
- Suy nghĩ, cảm xúc của Sơn trong đoạn trích: hiểu cảnh sống nghèo khổ của mẹ con bé Hiên, thương bé Hiên, vui sướng khi làm một việc tốt, giúp đỡ được người khác.
- Qua đó, có thể thấy tác giả nhấn mạnh lòng nhân hậu, sự quan tâm, yêu thương, chia sẻ của Sơn với những người nghèo khổ, đáng thương.
Câu 24:
Câu 25:
Tìm cụm danh từ trong những câu sau. Xác định trung tâm của cụm danh từ và những ý nghĩa mà trung tâm đó được bổ sung.
a. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí, Sơn lại gân chị thì thâm.
b. Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.
a. Cụm danh từ: một ý nghĩ tốt.
- Trung tâm của cụm danh từ: ý nghĩ.
- Phần phụ trước: một, có ý nghĩa chỉ số lượng.
- Phần phụ sau: tốt, chỉ đặc điểm của ý nghĩ.
b. Cụm danh từ: cái áo bông cũ.
- Trung tâm của cụm danh từ: cái áo.
- Phần phụ sau: bông, cũ, chỉ đặc điểm của áo.
Câu 27:
Đọc lại văn bản Gió lạnh đầu mùa (từ Hai chị em lo lắng dắt nhau đến không sợ mẹ mắng ư?) trong SGK (tr. 72) và trả lời các câu hỏi:
Tìm các từ ngữ miêu tả tâm trạng của hai chị em Sơn khi về nhà.
Câu 28:
Câu 29:
Câu 30:
Câu 31:
Câu 32:
Câu 33:
Câu 35:
Cụm tính từ trong đoạn trích: khổ lắm, quý quá
Với trung tâm của cụm tính từ đó, tạo ra ba cụm tính từ khác: rất khổ, khổ vô cùng, khổ quá,...
Câu 36:
Câu 37:
Gióc-ba chưa từng phủ nhận khi hải âu (Lắc-ki) tự nhận mình là một con mèo vì Gióc-ba cảm thấy vui sướng khi Lắc-ki muốn được giống như đàn mèo đã chăm sóc, nuôi nấng, che chở, yêu thương mình. Điều đó chứng tỏ con hải âu nhỏ đã gắn bó, yêu quý và tự hào về Gióc-ba và đàn mèo.
Câu 38:
Câu 39:
Câu 40:
Mèo Gióc-ba khẳng định rằng: "Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn". Em có đồng tình với điều đó không? Vì sao?
Câu 41:
- Hai cụm danh từ trong hai câu là: một con hải âu, một con hải âu xinh đẹp.
- Gióc-ba muốn giảng giải, nhấn mạnh với Lắc-ki một sự thật - Lắc-ki không phải là mèo như chú nghĩ. Lắc-ki là một con hải âu, hơn nữa là một con hải âu rất xinh đẹp. Điều đó thật đáng tự hào và Lắc-ki phải sống cuộc đời của một con hải âu.
Câu 42:
a. Chúng ta đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời.
b. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu.
c. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy.
a. Cụm động từ: đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời.
- Trung tâm của cụm động từ: bảo vệ.
- Phần phụ trước: đã, chỉ quan hệ về thời gian, biểu hiện sự nhấn mạnh.
- Phần phụ sau: con, từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời, chỉ đối tượng và thời gian của hành động bảo vệ.
b. Cụm động từ: yêu con như yêu một con hải âu.
- Trung tâm của cụm động từ: yêu.
- Phần phụ sau: con, như yêu một con hải âu, chỉ đối tượng và sự so sánh của hành động yêu.
c. Cụm động từ: cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy.
- Trung tâm của cụm động từ: cảm thấy.
- Phần phụ sau: con cũng yêu chúng ta như vậy, chỉ nội dung của hành động cảm thấy.
Câu 43:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tôi đến tận gốc chanh chăm chú theo dõi. Từng đợt, từng đợt, bảy tám con một lúc, những chú bọ ngựa bé tí ti như con muỗi, màu xanh cốm, ló cái đầu tinh nghịch có đôi mắt thô lố lách khỏi kẽ hở trên ổ trứng mẹ, cố rướn ra, cố trườn ra, thoát được cái đầu, cái mình... rồi nhẹ nhàng tọt khỏi ổ trứng, người treo lơ lửng trên một sợi tơ rất mảnh bay bay theo chiều gió. Mới ra khỏi ổ trứng, các chú nằm đờ một lát, rồi ngọ nguậy, rồi ngó ngoáy; các chú càng cứng càng cựa quậy thì sợi tơ càng dài ra, từ từ thả các chú xuống phía dưới. Cứ như là mẹ các chú đang ở đó, nhẹ nhàng bồng từng chú mà đặt xuống một cái nệm êm vậy.
Chú bọ ngựa con đầu đàn “nhảy dù” trúng một quả chanh non. Chú đứng hiên ngang trên quả chanh tròn xinh, giương giương đôi tay kiếm nhỏ xíu, mình lắc lư theo kiểu võ sĩ, ngước nhìn từng loạt, từng loạt đàn em mình đang “đổ bộ” xuống hết sức chính xác và mau lẹ. Chú đứng trên quả chanh, mang đầy đủ dòng máu hiệp sĩ của nòi bọ ngựa, hùng dũng như con sư tử đứng vờn quả cầu...
Đàn bọ ngựa mới nở chạy tíu tít, lập tức dàn quân ra khắp cây chanh, mỗi con mỗi ngả bắt đầu một cuộc sống dũng cảm, tự lập.
(Vũ Tú Nam, Cái trứng bọ ngựa, trích Những tác phẩm chọn lọc dành cho thiếu nhi - Hoa lá trong vườn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2009, tr. 29)
Câu 44:
- Chi tiết miêu tả đàn bọ ngựa con: bé tí ti như con muỗi, màu xanh cốm, ló cái đầu tinh nghịch có đôi mắt thô lố lách khỏi kẽ hở trên ổ trứng mẹ, cố rướn ra, cố trườn ra, thoát được cái đầu, cái mình, mới ra khỏi ổ trứng, các chú nằm đờ một lát, rồi ngọ nguậy, rồi ngó ngoáy; các chú càng cứng càng cựa quậy thì sợi tơ càng dài ra, từ từ thả các chú xuống phía dưới.
- Chi tiết miêu tả chú bọ ngựa con đầu đàn: hiên ngang trên quả chanh tròn xinh, giương giương đôi tay kiếm nhỏ xíu, mình lắc lư theo kiểu võ sĩ.
Câu 45:
Câu 46:
Câu 47:
Câu 48:
Từ láy: tí ti thô lố, nhẹ nhàng, lơ lửng, bay bay.
Việc sử dụng các từ láy giúp miêu tả sinh động hình ảnh những chú bọ ngựa vừa mới nở: nhỏ bé, tinh nghịch, khéo léo.
Câu 49:
Câu văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh: Chú đứng trên quả chanh, mang đầy đủ dòng máu hiệp sĩ của nòi bọ ngựa, hùng dũng như con sư tử đứng vờn quả cầu.
Hình ảnh bọ ngựa đứng trên quả chanh được so sánh với con sư tử đứng vờn quả cầu. Biện pháp tu từ so sánh đã tô đậm vẻ đẹp khoẻ khoắn, hùng dũng của chú bọ ngựa ngay từ lúc mới sinh ra.
Câu 50:
Đọc hai đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới:
Đoạn trích 1
Rét dữ dội, tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.
Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.
Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ!
Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.
[...] Thế rồi em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.
Chiếc tạp dề cũ kĩ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.
Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.
Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói rét vẫn lang thang trên đường. [...] Tuy nhiên, em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về, nhất định là cha em sẽ đánh em.
(Han Cri-xti-an An-đéc-xen, Cô bé bán diêm, Nguyễn Văn Hải - Vũ Minh Toàn dịch, Ngữ văn 6, tập một, Sđgd, tr. 61 - 62)
Đoạn trích 2
Trước cổng trường, bên kia đường phố, một cậu bé nạo ống khói(1) đang đứng, tay tựa vào tường, đầu gục vào tay. Người cậu đen ngòm những bồ hóng, cũng như cái bị, mấy cái chổi và cái nạo của cậu, và cậu khóc nức nở, não nuột quá chừng.
Hai ba nữ sinh lớp hai lại gần, hỏi cậu tại sao mà khóc như vậy.
Nhưng cậu bé nạo ống khói không trả lời, và cứ khóc mãi.
Các bạn nữ sinh lại hỏi:
- Kìa, nói đi, bạn làm sao vậy? Tại sao bạn khóc?
Cậu bé bỏ cánh tay xuống, để lộ gương mặt nom hiền hậu, kể là đi nạo mấy ống khói, được số tiền cộng lại là ba hào nhưng chả may rơi mất vì vô ý bỏ vào cái túi áo thủng. Và nay không dám trở về nhà chủ vì sợ bị đánh.
Nói rồi, cậu lại càng khóc thảm thiết hơn, đầu qục vào cánh tay như một kẻ tuyệt vọng.
[...] Một nữ sinh vào loại lớn, đội cái mũ có cắm chiếc lông chim xanh, lấy hai đồng xu trong túi ra và nói:
- Mình chỉ có hai xu, nhưng chúng ta hãy góp nhau lại.
- Mình cũng có hai xu đây - một cô bé mặc áo đỏ nói. - Thế nào tất cả chúng ta cũng kiếm đủ ba hào!
[...] Số tiền ba hào đã đủ, nhưng xu vẫn tiếp tục đổ ra như mưa. Những em bé không có tiền, cũng lách qua giữa các chị lớn, đem cho những chùm hoa nho nhỏ, gọi là cũng góp phần mình.
[...] Cậu bé nạo ống khói còn lại một mình trên đường phố, đứng lau nước mắt. Không những hai tay cậu đầy cả xu, mà các bạn nữ sinh còn luồn vào khuyết áo của cậu, đút vào túi áo, và cả trong mũ của cậu không biết bao nhiêu là chùm hoa nho nhỏ.
(Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, Cậu bé nạo ống khói, trích Những tấm lòng cao cả, Hoàng Thiếu Sơn dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2016 tr. 38 - 39)
(1) Ở các nước ôn đới, trẻ con nghèo thường đi làm nghề nạo ống khói lò sưởi, nhà bếp vì thân hình nhỏ, dễ chui vào ống khói.
Nhân vật cô bé bán diêm và cậu bé nạo ống khói có điểm gì giống và khác nhau? Hãy so sánh hai nhân vật theo sơ đồ gợi ý dưới đây.
Điểm giống và khác nhau giữa nhân vật cô bé bán diêm và cậu bé nạo ống khói:
- Giống nhau: Cả hai đều là nhân vật trẻ em được nhà văn miêu tả với dáng vẻ bên ngoài rất tội nghiệp. Hai nhân vật đều có hoàn cảnh sống rất khó khăn, đáng thương. Cả hai em đều không dám trở về nhà vì sợ bị đánh.
- Khác nhau:
+ Về dáng vẻ bên ngoài: Nhân vật cô bé bán diêm hiện ra qua chi tiết miêu tả trang phục, dáng vẻ giữa đêm giao thừa lạnh giá (đầu trần; chân đi đất, chân đỏ ửng, tím bầm; tạp dễ cũ kĩ,...). Nhân vật cậu bé nạo ống khói hiện ra qua chi tiết miêu tả dáng vẻ, hành động, tâm trạng (tay tựa vào tường, đầu gục, người đen ngòm, cứ khóc mãi, tuyệt vọng).
+ Cảnh ngộ: Cô bé bán diêm nghèo khổ, đói rét; không bán được bao diêm nào, đêm giao thừa nhưng không dám về nhà vì sợ cha đánh. Cậu bé nạo ống khói người đen ngòm vì vừa làm việc xong, được ba hào nhưng chẳng may rơi mất vì em vô ý bỏ tiền vào cái túi áo thủng. Cậu bé không dám về nhà chủ vì sợ bị đánh.
+ Thái độ, hành động của những người xung quanh đổi với nhân vật: Cô bé bán diêm không được ai đoái hoài tới, không ai bố thí cho em một đồng xu nào. Cậu bé nạo ống khói nhận được sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ của nhiều bạn học sinh. Hai tay cậu đầy đồng xu và cậu còn nhận được những chùm hoa nho nhỏ.
Câu 51:
Câu 52:
Nhân vật cô bé bán diêm và cậu bé nạo ống đều là nhân vật trẻ em được nhà văn miêu tả với dáng vẻ bên ngoài rất tội nghiệp. Cô bé bán diêm nghèo khổ, đói rét, không bán được bao diêm nào, đêm giao thừa nhưng không dám về nhà vì sợ cha đánh. Còn cậu bé nạo ống khói người đen ngòm vì vừa làm việc xong, được ba hào nhưng chẳng may rơi mất vì em vô ý bỏ tiền vào cái túi áo thủng. Cậu bé không dám về nhà chủ vì sợ bị đánh. Thế nhưng cậu bé nạo ống khói may mắn hơn cô bé bán diêm. Cậu nhận được sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ của nhiều bạn học sinh. Hai tay cậu đầy đồng xu và cậu còn nhận được những chùm hoa nho nhỏ thể hiện sự vui vẻ, hạnh phúc. Còn cô bé bán diêm không được ai đoái hoài tới, không ai bố thí cho em một đồng xu nào để rồi đã ra đi trong đêm tuyết rơi giá lạnh. Em thương xót cho nhân vật cô bé bán diêm hơn bởi cô bé đã phải chịu quá nhiều bất hạnh, đau thương cho đến tận khi cô bé lìa khỏi cõi đời này.
Câu 53:
NHẬT KÍ ĐỌC SÁCH
Ngày : …/ …/ …
Tên văn bản: Con thỏ trắng thông minh
Một số điểm nổi bật: Chú thỏ trắng nhanh nhẹn, tinh nghịch nhưng rất thông minh.
Câu hoặc đoạn trích yêu thích: Hóa ra lúc dê và khỉ đang tranh luận cách giải quyết thì thỏ đã nhanh trí chạy đi báo cảnh sát. Vì vậy mà khỉ đã thoát chết và sói đã bị trừng phạt thích đáng.
Suy nghĩ sau khi đọc: Tính mạng rất quan trọng, làm việc gì cũng phải lưu ý đến sự an toàn của mình. Khi con nhìn thấy người xấu thì đừng giả vờ không biết, cũng không nên tự mình trực tiếp đối đầu. Cách đúng đắn nhất là đi tìm người lớn giúp đỡ.
Câu 54:
NHẬT KÍ ĐỌC SÁCH
Ngày : …/ …/ …
Tên bài thơ: Hạnh phúc đơn sơ
Nội dung nổi bật: Gia đình bạn nhỏ có cuộc sống giản dị. Cả nhà cùng nhau ngồi trên chiếc đạp nhỏ đi dạo khắp phố. Mặc cho người người, nhà nhà đi xe máy, xe hơi nhưng mọi thành viên trong gia đình bạn nhỏ đều cười rất vui vẻ, hạnh phúc bên nhau.
Suy nghĩ sau khi đọc: Hạnh phúc không xuất phát từ vật chất hay sự giàu sang. Mọi người trong gia đình luôn nghĩ về nhau, yêu thương nhau thì sẽ cùng nhau cố gắng để cuộc sống ngày một tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Câu 55:
NHẬT KÍ ĐỌC SÁCH
Ngày : …/ …/ …
Tên câu chuyện: Chia đôi chiếc bánh mì
Nội dung nổi bật: Bạn nhỏ cầm chiếc bánh mì vừa mua nóng hổi, thơm phức, trong lòng rất vui sướng. Bên kia đường, cậu bé đánh giày đang run rẩy vì vừa đói, vừa lạnh. Bạn nhỏ đã chẳng ngần ngại chia đôi chiếc bánh mì cho cậu bé đánh giày. Cả hai nhìn nhau cười rất vui vẻ. Bạn nhỏ về nhà nhờ bố mẹ tìm cách giúp đỡ cậu bé đánh giày kia có cuộc sống tốt hơn.
Suy nghĩ sau khi đọc: Chúng ta phải biết chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ những người có hoàn cảnh, cuộc sống khó khăn hơn mình. Giúp được người khác trong lòng sẽ cảm thấy thoải mái hơn, cuộc sống cũng sẽ tốt đẹp hơn.