Giải SBT Ngữ Văn lớp 6 KNTT Bài 5: Những nẻo đường xứ sở có đáp án
-
149 lượt thi
-
47 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Câu 2:
Vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được tác giả thể hiện qua các từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh đáng chú ý sau :
- Một ngày trong trẻo, sáng sủa
- Cây thêm xanh mượt
- Nước biển lam biếc đặm đà hơn
- Cát lại vàng giòn hơn
- Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.
Em thích chi tiết “lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi” sau bão. Vì đây là hình ảnh sẽ mang đến sự ấm no, hạnh phúc cho những người dân ở nơi đây.
Câu 3:
Câu 4:
Từ láy có từ sáng: sáng láng, sáng loáng, sáng ngời, sáng trong, sáng quắc, sáng rực,...
Từ láy hoặc từ ghép với từ đầy: đầy đủ, đầy ắp, đầy rẫy,..,
Câu 5:
Câu 6:
Câu 7:
Câu 8:
Câu 9:
Câu 10:
Câu 11:
Các câu văn có chứa từ so sánh:
Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi.
Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết, tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.
Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông.
Biện pháp tu từ so sánh được dùng trong đoạn trích có tác dụng làm cho người đọc hình dung rõ hơn về hoạt động của con người, không khí sinh hoạt của dân đảo, sự gắn bó của tác giả với người dân đảo và sự tôn vinh vẻ đẹp, tầm vóc của những người dân lao động bình thường trên đảo.
Câu 12:
Câu 13:
Câu 14:
Câu 15:
Câu 16:
Câu 17:
Câu 18:
Câu 19:
Dấu ngoặc kép được sử dụng trong đoạn trích để đánh dấu một từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt: "nhan sắc" Từ "nhan sắc" vốn được dùng để chỉ vẻ đẹp của người, ở đây tác giả dùng để chỉ vẻ đẹp của một công trình kiến trúc. Đây là cách nói dí dỏm, khiến cho cảnh vật trở nên gần gũi, thân quen.
Câu 20:
Đọc lại văn bản Hang Én (từ Lòng hang Én phía trước, nơi rộng nhất khoảng 110m2 đến trần hang cao hàng trăm mét) trong SGK (tr. 116) và trả lời các câu hỏi:
Nêu các chi tiết miêu tả lòng hang Én.
- Lòng hang là nơi rộng nhất, to như "cái khổng lồ và an toàn mà mẹ Thiên nhiên ban tặng cho con người". Trong hang Én có hàng vạn con trú ngụ và "chưa biết sợ con người".
- Muốn tới hang Én phải xuyên qua rừng nguyên sinh. qua con dốc Ba Gian dài gần 2km. Dốc cao và gập ghềnh, đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chặng có cây đổ chắn ngang hoặc những vòm dây leo giăng kín.
- Nhiều cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại tầm gửi, có cả hoa phong lan đang nở.
- Có sên, vắt và nhiều loại côn trùng, chim chóc.
- Nhiều con suối róc rách, thảm cỏ, cây cối rậm rạp, lúp xúp
- Nước suối trong vắt, mát lạnh, nhìn rõ đàn cá bơi liêu xiêu giữa dòng nước.
- Những đàn bướm đủ màu, đậu thành từng vạ.
Câu 21:
Câu 22:
Câu 23:
Câu 24:
Câu 25:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Cổ Chiên - cái tên thật lạ và thật đẹp, đẹp như dòng nước cuồn cuộn phù sa nuôi cây lá hai bên bờ, thật ra là một nhánh sông Tiền Giang, dài 82 cây số. Trên bản đồ nó chỉ là một đường vẽ màu xanh nhỏ bé.
Nhớ những giờ địa lí hồi trung học đệ nhất cấp(1), thầy giáo chia nhóm học sinh để vẽ bản đồ đất nước. Nhóm nào vẽ đúng và đẹp thì được điểm cao. Thầy dạy chúng tôi cách đo tỉ lệ thật chính xác. Chúng tôi lấy giấy khổ lớn, nắn nót vẽ từng nét bút chì màu. Chính nhờ những buổi học ấy mà dòng Cổ Chiên vừa lạ lẫm vừa thân thuộc đã đi vào trí óc non nớt của tôi cùng với những tên sông xa xôi đầy thương mến khác: Nậm Thi, Lục Nam, Kinh Thầy, Rạch Gầm, Vàm Nao, Gành Hào,... Giờ địa lí của thầy nuôi trong lòng tôi giấc mơ một ngày nào được đi thuyền trên khắp các dòng sông nước mình.
Tôi đến với Cổ Chiên khi cây cầu bắc qua sông đang thành hình. Những chiếc phà tận tuy bao năm đưa người dân qua sông giờ sắp hoàn thành sứ mệnh. Sẽ không còn cảnh chờ đợi qua phà giữa ngày mưa dầm hay trong cơn nắng gắt. Đường tiêu thụ nông sản đồng bằng sẽ thông thoáng và thuận lợi hơn. Gần Tết, hoa quả nơi đây vừa theo đường sông vừa theo đường bộ toả về các ngả. Dòng sông đã chứng kiến bao mùa hoa trái. Dừa, bắp, đậu, dưa hấu, khoai lang, khoai mì, cam, quýt,... từ bên cồn chở về nườm nượp. Trên sông, những ngôi nhà bè nối tiếp nhau, mái tôn sáng lấp loáng dưới ánh nắng.
Những dòng sông, những cây cầu, những chuyến phà,... như thế đã kết nối thực tại với giấc mơ lãng du thời niên thiếu của tôi.
(Theo Huỳnh Như Phương, Thành phố những thước phim quay chậm,
NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr. 107 - 113)
(1) Trung học đệ nhất cấp: chương trình trung học từ lớp 6 đến lớp 9 (hệ thống giáo dục miền Nam trước năm 1979).
Câu 26:
Câu 27:
Câu 28:
Câu 29:
Câu 30:
Câu 31:
Câu 32:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Những ai đã một lần đến viếng Thánh địa Mỹ Sơn đều tả lại được cái cảm giác lâng lâng khi đặt chân vào thung lũng đầy những phế tích hoang sơ này. Dường như ở đó có một từ trường cực mạnh thu hút năng lượng từ vũ trụ, một sự hòa điệu giữa những ngôi tháp cổ có thể tạo nên giai điệu, mà nếu lắng nghe, du khách có thể cảm được giai điệu ấy thấm dần vào cơ thể mình. [...] Hình như là tiếng gió lùa qua các ngọn cổ tháp hoang phế. Hình như những viên gạch Chàm màu nâu sậm lên tiếng. Hình như những ngọn tháp đang thì thầm với bầu trời. Hình như chính tôi đang hát khúc nguyện cầu lặng lẽ... Tôi nghe, bấy giờ khoảng 9 giờ sáng, mưa bụi, bầu trời màu lam, âm âm khắp thung lũng những tiếng ngân, những dư vang, một tiếng nói mơ hồ của kiến trúc, một giao thoa giữa gạch chín nẫu và sa thạch. Tôi đứng lặng dưới vòm cong một ngọn tháp. Phía trên đầu tôi là phù điêu thần Ka-la (vị thần tượng trưng cho thời gian trong tôn giáo và nghệ thuật Chàm) mà râu tóc Thần là những nhánh địa y xanh đẫm. [...] Với hơn 70 công trình kiến trúc được xây dựng từ thế kỉ thứ IV đến thế kỉ thứ XII, Mỹ Sơn hiện diện trong lịch sử kiến trúc tôn giáo Việt Nam như một điều kì diệu, một cơ may. [...]
Vâng, từ đất và từ đá, người nghệ sĩ Chàm vĩ đại cách ba thiên niên kỷ trước đã nghe ra những hòa điệu, và đã thể hiện được những hòa điệu ấy trên đất và trên đá. Để bây giờ, những viên gạch Chàm nơi đây, dù lành lặn hay sứt mẻ, đều biết tự hát. Tôi nghe, âm âm, rì rầm khắp thung lũng Mỹ Sơn tiếng hát của đất và đá, hoà quyện thành một giai điệu, rõ ràng và mơ hồ như chính những ngọn tháp ở đây.
Câu 33:
Câu 35:
Câu 36:
Trong đoạn trích này, biện pháp tu từ nhân hoá được sử dụng khá nhiều.
- Hình như những viên gạch Chàm màu nâu sậm lên tiếng.
- Hình như những ngọn tháp đang thì thầm với bầu trời.
- Để bây giờ, những viên gạch Chàm nơi đây, dù lành lặn hay sứt mẻ, đều biết tự hát.
- Tôi nghe, âm âm, rì rầm khắp thung lũng Mỹ Sơn tiếng hát của đất và đá, hoà quyện thành một giai điệu, rõ ràng và mơ hồ như chính những ngọn tháp ở đây.
Biện pháp tu từ nhân hoá trong các câu này có tác dụng khẳng định chính đất đá qua bàn tay sáng tạo của con người đã truyền được những thông điệp về văn hoá và lịch sử, về tâm hồn và sự tài hoa của con người. Khi đến thăm di tích, du khách hiểu được những thông điệp đó cũng chính là đã nghe thấy lời "tâm sự" của những thứ vốn chỉ là vật chất vô tri.
Câu 37:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Bao giờ cũng thế, sau cơn lũ, nước rút, các loại cá giã từ đồng bãi túa ra sông, rạch, kênh, mương. Cá nhiều vô kể. Cá lóc, cá rô, cá mè, cá chạch, cá chài, cá dảnh, cá mè vinh, cá tra, cá võ, cá chép, cá cốc, cá hú, cá bông lau, cá bụng,... Nhưng tháng 10 âm lịch là thời điểm cá linh áp đảo khắp nơi sông nước đồng bằng. Cá “ken đặc nước? “cá linh đua”
Không phải đợi đến tháng 10 mới có cá linh. Sau những đêm ngày vợ chồng Ngâu sướt mướt chia tay, cuối tháng 7, đầu tháng 8 ta, nhiều người bạn đã rủ rê: “Về đi, cá linh non, bông điên điển đã có rồi”
Mùa thu phương bắc có vẻ đẹp yêu kiều của mặt hồ phẳng lặng, nước trong veo, xanh biêng biếc. Còn ở đây, miền quê châu thổ Cửu Long, gió sớm hiu hiu, mặt nước lao xao bóng nắng. Ngồi với bạn bè trong mái lá nhà sàn, lát vạt tre, bên tô cá linh kho lạt, đĩa bông điên điển vàng hươm, gắp một nhúm cá con cặp vào bông điên điển, nhắp ly đế quê nhà,... Một chút hồn quê đã đến với ta trong khoảnh khắc.
(Mai Văn Tạo, trích Mùa vui sông nước, Tản văn,
NXB Hội Nhà văn, 1999, tr. 183 - 184)
Câu 38:
Câu 39:
Câu 40:
Các trường hợp dùng dấu ngoặc kép:
- Cá "ken đặc nước", "cá linh đua": dẫn lại những cách gọi tên, cách nói khác về loài cá linh (nhấn mạnh số lượng cá linh khi vào mùa).
- "Về đi, cá linh non, bông điên điển đã có rồi": dẫn lời của người khác, phân biệt với lời của người kể chuyện trong văn bản.
Câu 41:
Bao giờ cũng thế, sau cơn lũ, nước rút, các loại cá giã từ đồng bãi túa ra sông, rạch, kênh, mương.
Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu văn trên? Nêu tác dụng của biện pháp đó.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu là nhân hoá. Tác dụng của nó là làm cho người đọc cảm nhận loài cá cũng giống con người, từ giã một nơi cư ngụ để đến với những nơi rộng lớn hơn. Nhờ đó, câu văn trở nên sinh động.
Câu 42:
Câu 43:
Viết đoạn văn (khoảng 7 - 10 câu) chia sẻ cảm nhận về một bài du ký mà em thích (có thể là bài du kí trong SGK hoặc trong các tuyển tập ký, trên in-tơ-nét,...).
Câu 44:
Câu 45:
Câu 46:
NHẬT KÍ ĐỌC SÁCH
Ngày : …/ …/ …
Bài thơ: Quê hương qua lời mẹ kể
Tác giả: Công Vinh
Một số điểm nổi bật: Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát dễ đọc, dễ nhớ. Tác giả không sử dụng nhiều biện pháp tu từ nhưng cách gieo vần giản dị, ngôn ngữ thơ gần gũi với cuộc sống thường ngày khiến người đọc cảm nhận được tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước bình dị mà tha thiết.
Câu hoặc đoạn trích yêu thích:
"Dù cho xa cách dặm trường,
Lòng con vẫn mãi vấn vương Thu Bồn".
Dù có đi đâu xa thì lòng tác giả vẫn mãi hướng về quê hương, gia đình của mình.
Suy nghĩ sau khi đọc: Em càng thêm yêu gia đình, yêu quê hương đất nước. Em tự nhủ phải cố gắng rèn luyện, học tập chăm chỉ để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
Câu 47:
NHẬT KÍ ĐỌC SÁCH
Ngày : …/ …/ …
Đoạn trích: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu
Tác giả: Tô Hoài
Một số điểm nổi bật: Nghệ thuật nhân hóa đã giúp các nhân vật trong câu chuyện trở nên sinh động. Cách kể chuyện gần gũi, hấp dẫn người đọc. Nhân vật Dế Mèn hiện lên như một chàng hiệp sĩ dũng mãnh bảo vệ công lý.
Câu hoặc đoạn trích yêu thích: " Em đừng sợ,. Hãy trở về cùng tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe ăn hiếp yếu". Hành động đó, lời nói đó thể hiện lòng nghĩa hiệp của chàng Dế Mèn thấy chuyện " bất bình chẳng tha".
Suy nghĩ sau khi đọc: Câu chuyện ca ngợi hành động đẹp đẽ và lòng nghĩa hiệp của Dế Mèn, một con người " ra đường thấy chuyện bất bình chẳng tha", sẵn sàng bao bọc, che chở cho kẻ yếu, xóa bỏ mọi áp bức bất công trong xã hội. Bản thân em cũng học được từ chú Dế Mèn bài học về lòng nghĩa hiệp, phải biết giúp đỡ những người yếu thế hơn mình.