Giải SBT Ngữ Văn lớp 6 KNTT Bài 6: Chuyện kể về những người anh hùng có đáp án
-
187 lượt thi
-
59 câu hỏi
-
30 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Những điều phi thường, kỳ lạ gắn với nhân vật Thánh Gióng:
- Sự ra đời của Thánh Gióng hoàn toàn không giống sự ra đời của một người bình thường (Thánh Gióng được sinh hạ bởi một người đàn bà hiếm muộn, đã luống tuổi; Thánh Gióng là kết quả của cuộc thụ thai khác thường; người mẹ mang thai Thánh Gióng trong mười hai tháng).
- Quá trình lớn lên của Thánh Gióng hết sức đặc biệt (đến tận khi ba tuổi vẫn không biết cười, biết nói; không nhích đi được bước nào; chỉ mở miệng khi nghe tin sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước).
- Thánh Gióng “lớn nhanh như thổi” sau hôm gặp sứ giả, khiến bà con làng xóm phải “gom góp gạo thóc để nuôi”
- Vũ khí và vật dụng mà Thánh Gióng yêu cầu chuẩn bị cho mình đều làm bằng sắt.
- Thánh Gióng đã thể hiện sức mạnh thần thánh khi đánh giặc, khiến giặc tan vỡ.
- Khi dẹp xong giặc, Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay lên trời, biến mất,...
Việc tô đậm những điều phi thường, kỳ lạ đã gợi lên ở người nghe, người đọc một niềm ngưỡng mộ bất tận. Nói chung, cách kể này thường xuyên được sử dụng ở các truyền thuyết về người anh hùng, nhằm làm nổi bật bản chất siêu nhiên của họ.
Câu 2:
Em hãy tùy chọn chi tiết mà mình muốn chia sẻ cảm nhận. Khi nói về chỉ tiết đã chọn ấy, nên quan tâm làm rõ ý nghĩa biểu trưng của nó. Một vài chi tiết đáng chú ý:
- Câu nói thứ hai thốt ra từ miệng Thánh Gióng không phải câu vòi mẹ, đòi ăn mà là câu nhận sứ mệnh đánh giặc. Rõ ràng Thánh Gióng không phải là người thường, Thánh Gióng sinh ra để thực hiện chức năng cứu giống nòi, dân tộc trước họa xâm lăng. Câu nói của Thánh Gióng phản ánh tình thế tổn tại rất đặc biệt và khả năng vượt lên tình thế đó của dân tộc ta ngay từ buổi đầu dựng nước.
- Chi tiết “chú bé vùng dậy, vươn vai một cái, bỗng biến thành một tráng sĩ oai
phong lẫm liệt” muốn nói đến sự trỗi dậy kì diệu của sức sống dân tộc mỗi khi gặp thử thách ngặt nghèo. Trong tình thế bức bách, tất cả đều lớn vượt lên, không theo nhịp độ thời gian bình thường mà theo nhịp độ đặc biệt.
- Chi tiết Thánh Gióng đánh giặc xong, cởi giáp sắt bỏ lại và bay thẳng lên trời càng nhấn mạnh thêm bản chất phi thường và tính chất chức năng của hình tượng nhân vật này. Thánh Gióng như là hiện thân của lực lượng hộ quốc tiềm ẩn mà người dân Việt luôn tin tưởng. Lực lượng ấy không dễ nhận biết bằng con mắt trần tục. Nó sẽ chứng tỏ sức mạnh khi cần thiết, sau đó biến đi, hoà lẫn vào những giá trị tinh thần bất tử khác của dân tộc.
Câu 3:
Những chi tiết, sự kiện chứng tỏ trong nhận thức của tác giả dân gian, Thánh Gióng thực sự là người anh hùng của cộng đồng:
- Bà con hàng xóm cũng vui lòng gom góp gạo thóc để nuôi chú bé.
- Vua nhớ công ơn, không biết lấy gì đền đáp, bèn phong là Phù Đổng Thiên Vương, và lập miếu thờ ngay ở quê nhà.
Các chỉ tiết này cho thấy Thánh Gióng thực sự là người anh hùng của nhân dân, lớn lên từ sự đùm bọc, thương yêu, kỳ vọng của nhân dân và vì non sông đất nước mà lập chiến công vang dội, khiến nhân dân muôn đời biết ơn, ngưỡng mộ.
Câu 4:
Lý do khiến Thánh Gióng luôn được xác định là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về chủ đề chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước trong kho tàng truyền thuyết dân gian người Việt:
- Kho tàng truyền thuyết dân gian của người Việt gồm các tác phẩm thể hiện nhiều chủ đề khác nhau. Trong số những tác phẩm thuộc chủ đề chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, Thánh Gióng kể về cuộc chiến chống xâm lược thuở nước Văn Lang mới được dựng lên. Do vị trí của cuộc chiến ấy mà truyện Thánh Gióng có một giá trị hết sức nổi bật.
- Không chỉ thế, truyện Thánh Gióng còn xây dựng được một hình mẫu tiêu biểu
về người anh hùng bảo vệ đất nước trước họa xâm lược. Ở nhân vật Thánh Gióng có sự kết tinh sức mạnh của cả cộng đồng, của thiên nhiên làng mạc quê hương và của tất cả những gì được người dân Việt xưa sáng tạo nên để sinh tồn và phát triển.
- Với hình thức biểu trưng sống động, truyện Thánh Gióng đã phản ánh được ý chí, bản lĩnh và sức mạnh của cả một dân tộc luôn biết vượt lên những tình huống thử thách đặc biệt.
Câu 5:
Em tự chọn một đoạn có lời kể mà em cho là sinh động nhất để phân tích.
Nếu chọn đoạn kể về cảnh Thánh Gióng ra trận, cần lưu ý các điểm sau:
- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập.
- Đoạn văn sử dụng rất nhiều động từ chỉ các hoạt động mạnh mẽ như: nhảy lên, nhổ, quật,...
Nói chung, lời kể của Lê Trí Viễn đã bảo lưu được tính mộc mạc, chú trọng hiệu quả tác động trực tiếp của lời kể truyền miệng.
Câu 6:
Có một từ Người viết hoa và một từ người viết thường trong câu sau đây:
Nhưng đến đất, không biết vì sao, Người một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời, biến mất.
Theo em, vì sao có cách viết khác nhau đó?
Trong câu văn có hai từ người, từ thứ nhất là đại từ chỉ Thánh Gióng, từ thứ hai là danh từ chung. Đại từ Người chỉ Thánh Gióng cần được viết hoa để tỏ sự tôn kính. Danh từ chung người không cần phải viết hoa.
Câu 7:
Đọc lại văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh trong SGK (tr. 10 – 12) và trả lời các câu hỏi:
Sự kiện trực tiếp dẫn đến cuộc xung đột giữa Thủy Tinh và Sơn Tinh là gì?
Câu 8:
Câu 9:
Câu 10:
Truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh chứa đựng các ý nghĩa chính sau:
- Giải thích nguyên nhân của nạn lũ lụt hằng năm vẫn đe dọa cuộc sống của cư dân vùng xung quanh chân núi Tản Viên, nói rộng ra là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
- Phản ánh khát vọng chế ngự các lực lượng thiên nhiên hung bạo để bảo vệ cuộc sống và hoạt động canh tác, sản xuất của người Việt thuở xưa.
- Phản ánh được đôi nét về đặc điểm địa bàn cư trú, tổ chức xã hội và phong tục, tập quán của người Việt cổ.
- Thể hiện được trí tưởng tượng phong phú của các tác giả dân gian khi hư cấu nên một câu chuyện vừa đời thường, vừa kì vĩ với cuộc xung đột của hai vị thần đại diện cho hai không gian sống quen thuộc với tổ tiên ta ngày trước.
Câu 11:
Câu 12:
Câu 13:
Câu 14:
“Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” - đó là lời một vị thần hiện lên
trong giấc mộng của Lang Liêu. Lời nói đó thể hiện quan niệm rất sâu sắc của nhân dân về giá trị của những vật phẩm ngỡ tầm thường mà kết tỉnh trong đó bao công sức lao động và sáng tạo của người bình dân, lại có khả năng nuôi sống con người. Sự thực, đó là lời tôn vinh đối với lúa gạo, nghề trồng lúa nước và đối với lao động nói chung.
Câu 15:
Câu 16:
Những câu văn có sử dụng dấu chấm phẩy trong văn bản:
- Giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong phải đề phòng; dân có ấm no, ngai vàng mới vững.
- Từ khi lớn lên, ra ở riêng, ông chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai; bây giờ nhìn quanh quần trong nhà, cũng chỉ lúa khoai là nhiều.
- Từ khi lớn lên, ra ở riêng, ông chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai; bây giờ nhìn quanh quần trong nhà, cũng chỉ lúa khoai là nhiều.
Trong cả hai câu văn trên, dấu chấm phẩy đã được dùng rất đúng chỗ và hợp lý, khó thay chúng bằng dấu phẩy hay dấu chấm. Khó thay bằng dấu chấm vì hai vế câu diễn đạt một ý liên tục. Cũng khó thay bằng dấu phẩy vì nội dung các cụm từ trước và sau đó có sự phân biệt khá rõ về tính chất.
Câu 17:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no. Áo vừa may xong đã chật ních. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con hàng xóm cũng vui lòng gom góp gạo thóc để nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú bé giết giặc, cứu nước.
(Thánh Gióng, Ngữ văn 6, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2021, tr.7)
Câu 18:
Câu 19:
Một số câu thơ có nội dung bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với việc lớn nhanh kỳ diệu của Thánh Gióng:
- Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi nước cạn đà khúc sông.
(Vè cổ, theo Cao Huy Đỉnh)
- Thần vương nghe biết khúc nhôi,
Tức thì vươn dài dư mười trượng cao.
Con mắt sáng vẻ như sao,
Lưu tỉnh chấp chới tót vào đầu tỉnh.
(Khuyết danh, Thiên Nam ngữ lục)
- Đón ngựa xong, thân tướng
Ăn liền ba vạc cơm
Vươn vai lớn mười trượng
Bóng che trùm cả thôn.
(Huy Cận, Phù Đổng Thiên Vương)
- Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy ngàn cân.
(Tố Hữu, Theo chân Bác)
Câu 20:
Câu có thể được xem là then chốt trong đoạn trích: “Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi.” Tất cả các câu khác đều triển khai nội dung được nói trong câu này.
Câu 21:
Câu 22:
Câu 23:
Câu 24:
Các món đồ sính lễ buộc phải có gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Qua tên gọi của chúng, có thể thấy được phần nào phong tục và đời sống sinh hoạt của người Việt thuở xưa: coi trọng những sản phẩm được làm ra từ lúa, gạo (gắn với nền sản xuất lúa nước); biết thuần dưỡng các loài chim, thú sinh sống trên địa bàn cư trú vốn nhiều rừng núi của mình như voi, ngựa, gà,...
Câu 25:
Câu 26:
Câu 27:
Đọc lại văn bản Bánh chưng, bánh giầy (từ Nhà vua bèn gọi các con lại đến đem về lễ Tiên vương) trong SGK (tr. 22) và trả lời các câu hỏi:
Nêu chi tiết có thể giúp người đọc biết được câu chuyện xảy ra vào thời kì nào trong lịch sử dân tộc. Em đã học truyền thuyết nào cùng kể về thời kỳ lịch sử này?
Câu 28:
Câu 29:
Câu 30:
Câu 31:
Câu 32:
Câu 33:
Từ hậu được chú thích ở SGK (tr. 22) là chỉ sự đầy đặn, thường nói về lễ vật, ơn nghĩa, phúc đức,... Có thể nêu những từ chứa yếu tố hậu mang nghĩa này như: hậu ý (ý tốt), hậu đãi (tiếp đãi một cách chu đáo, đầy trân trọng), hậu vị (vị ngon),...
Câu 34:
Câu 35:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tự nhiên, một hôm có một đàn chim lớn bay từ phuwownh tây lại, đậu đen ngòm cả một bãi cát. Rồi chúng bay đến trước mặt hai vợ chồng kêu váng cả lên, thả xuống năm sáu hạt. Ít lâu sau từ những hạt ấy mọc ra một loại cây dây bò lan xanh um cả bãi, có rất nhiều quả xanh mướt, to bằng đầu người. Mai trẩy một quả, bổ ra thấy ruột đỏ hồng, hạt đen nhánh. Vợ chồng con cái cùng nếm thấy vị ngòn ngọt thanh thanh. Mai reo lên:
- Ồ! Đây là thứ dưa lạ, chưa từng thấy bao giờ. Hãy gọi nó là dưa tây, vì thứ dưa này được bầy chim đưa từ phương tây lại, từ đất liền ra cho chúng ta. Trời nuôi sống chúng ta rồi!
(Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1,
NXB Khoa học xã hội, 1976, tr. 81)
Đoạn trích được lấy từ một bản kể về truyền thuyết Mai An Tiêm sống trên đảo hoang thời các Vua Hùng. Họ tên đầy đủ của nhân vật là Mai An Tiêm.
Câu 36:
Những chỉ tiết có thể giúp ta hình dung được hoàn cảnh sống của các nhân vật:
- .... Thứ dưa này được bây chim đưa từ phương tây lại, từ đất liên ra cho chúng ta: các nhân vật sống trên một hòn đảo giữa Biển Đông.
- “Trời nuôi sống chúng ta rồi!”: Câu nói cho biết các nhân vật phải vật lộn với hoàn cảnh để tìm cái ăn, để tồn tại được ở nơi vốn không có người sinh sống.
Đó là một hoàn cảnh sống đầy thử thách, đòi hỏi con người phải không ngừng vươn lên nếu muốn tồn tại.
Câu 37:
Câu 38:
Câu 39:
Câu 40:
Câu 41:
Câu 42:
Ngòn ngọt, thanh thanh đều là những từ láy biểu đạt cái vị mà người ta cảm thấy khi nếm hay dùng một thức ăn nào đó. Ngòn ngọt thuộc vị ngọt, nhưng có mức độ nhạt hơn so với ngọt. Thanh thanh chỉ vị thanh, nhưng ở mức độ nhẹ nhàng, dìu dịu hơn so với thanh. Trong tiếng Việt có nhiều từ láy thuộc loại này, thường được dùng để chỉ mức độ giảm bớt của vị, màu, cảm giác “gốc”: đăng đắng (đắng), mằn mặn (mặn), đo đỏ (đỏ), tim tím (tím), xanh xanh (xanh), lành lạnh (lạnh), sờ sợ (sợ),...
Câu 43:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Đền Cuông gắn với một huyền thoại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đền thờ Thục An Dương Vương – một vị vua có công lớn trong buổi đầu dựng nước. Lễ hội đền Cuông được tổ chức vào dịp rằm tháng Hai âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo người dân về dự. Sau nhiều năm bị lãng quên, năm 1993, lễ hội đền Cuông được phục hồi. Từ đó đến nay, lễ hội được duy trì hằng năm và trở thành một sinh hoạt văn hóa tâm linh không thể thiếu của người dân Nghệ An và du khách thập phương.
[…] Gần 20 năm qua, lễ hội đền Cuông được tổ chức hằng năm với các lễ nghi trang trọng mà linh thiêng: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ rước, lễ đại tế và lễ tạ. Lễ khai quang diễn ra đầu tiên, được tổ chức vào ngày 12 tháng Hai âm lịch để xin phép các vị thần cho nhân dân dọn dẹp đền, chuẩn bị cho lễ hội. Sau lễ khai quang là lễ cáo trung thiên được tổ chức vào sáng ngày 14 tháng Hai để báo cáo với các vị thần rằng công việc dọn dẹp đền đã hoàn thành, mời các vị về đền tham dự lễ hội và chứng giám cho lòng thành kính của nhân dân. Lễ yết diễn ra vào chiều tối ngày 14 tháng Hai, còn có lễ rước vua và công chúa vi hành. Sáng 15 tháng Hai tiến hành lễ rước vua, công chúa và tướng Cao Lỗ từ đình Xuân Ái về đền Cuông. Sau đó là lễ đại tế. Lễ đại tế là lễ chính, bao gồm 8 bước. Trình tự và nội dung của buổi lễ tương tự như lễ yết, nhưng có thêm hai lần dâng hương, rượu. Lễ tạ được tổ chức vào sáng ngày 16 tháng Hai để tạ ơn các vị thần đã về dự lễ. Trong thời gian lễ hội, ban ngày có các trò chơi truyền thống, thi đấu thể thao như đánh đu, chọi gà, kéo co, cờ người, biểu diễn võ cổ truyền, thi đấu bóng chuyền, hội trại, …ban đêm có hát ca trù, tuồng, chèo, đốt lửa trại, …Không khí lễ hội thật là hấp dẫn, tưng bừng, náo nhiệt.
(Theo Anh Tuấn, Đền Cuông: truyền thuyết và lễ hội,
tạp chí điện tử Văn hóa Nghệ An, ngày 29/3/2012)
Văn bản có đoạn được trích ở trên thuộc loại văn bản gì?
Câu 44:
Câu 45:
Câu 46:
Câu 47:
Câu 48:
Có thể suy đoán nghĩa của từ khai quang được dùng trong đoạn trích theo cách:
- Chú ý chi tiết “diễn ra đầu tiên” liên hệ tới những từ có yếu tố khai như khai giảng, khai hội, khai trương, khai bút, khai vị, từ đó đoán nghĩa của yếu tố khai là “mở ra” hay “bắt đầu”.
- Chú ý chi tiết “dọn dẹp đền/ liên hệ tới những từ có yếu tố quang như quang minh, quang vinh, quang quẻ (từ láy), từ đó đoán nghĩa của yếu tố quang là “sáng, sáng sủa, thưa, trống/,...
- Đoán nghĩa chung của từ khai quang: mở ra cho sáng sủa hay bắt đầu cho trôi chảy, thuận lợi.
Câu 49:
Câu 50:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Truyền thuyết dân gian thường được kể để minh giải cho truyền thống, tập tục, nghi lễ. Ngược lại, chính những yếu tố đó của văn hóa dân gian lại là một bằng chứng về tính xác thực của truyền thuyết. Điều đáng chú ý là người kể truyền thuyết bao giờ cũng muốn làm cho người nghe tin vào tính chất xác thực của câu chuyện được họ kể lại, mặc dù tính chất hư cấu thường có nhiều chất kì ảo của nó. Và người nghe cũng luôn tin vào những điều giải thích như thế, kể cả những điều giải thích đượm chất hoang đường.
(Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian,
NXB Giáo dục, 2002, tr. 60)
Nội dung đoạn trích nói về vấn đề gì?
Câu 51:
Câu 52:
Có thể dùng văn bản Ai ơi mồng 9 tháng 4 để làm sáng tỏ nhận định: Truyền thuyết dân gian thường được kể để minh giải cho truyền thống, tập tục, nghi lễ.
Ngược lại, chính những yếu tố đó của văn hoá dân gian lại là một bằng chứng về tính xác thực của truyền thuyết.
Câu 53:
Nhiều người thuộc nhiều thế hệ luôn tin vào tính chất xác thực của những truyền thuyết là vì:
- Vô số tập tục, nghỉ lễ được duy trì và thực hiện qua nhiều đời dường như đã chứng minh những điều được các truyền thuyết kể lại là có thật.
- Bản thân các truyền thuyết luôn có những chi tiết, lời kể gắn câu chuyện với một mốc lịch sử nào đó từng được xác nhận hay với những chứng tích còn có thể được nhìn thấy tận mắt.
- Nhiều nhân vật trong truyền thuyết là nhân vật lịch sử có thật.
Câu 54:
Người kể truyền thuyết bao giờ cũng muốn làm cho người nghe tin vào tính chất
xác thực của câu chuyện được họ kể lại. Nhiều câu, nhiều chỉ tiết trong các văn bản đã học có thể được dùng làm bằng chứng cho nhận định đó như:
- Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Phù Đồng...; Bấy giờ, có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta; Còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Và khi ngựa thét ra lửa có cháy mất cả một làng. Làng đó nay gọi làng Cháy... (Thánh Gióng).
- Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái...; Một người ở vùng núi Tân Viên... (Sơn Tinh, Thuỷ Tỉnh).
Câu 55:
Có thể tổ chức lại đoạn trích thành đoạn chỉ có hai câu theo cách sau:
- Bỏ dấu chấm sau câu thứ nhất, thay bằng dấu chấm phẩy, viết thường từ “ngược”.
- Bỏ dấu chấm sau câu thứ ba, viết thường từ “và”.
Câu 56:
Trong những truyền thuyết đã đọc, em thích nhất là truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bởi sự cuốn hút, hấp dẫn đặc biệt của nó. Truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh tái hiện cuộc chiến giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thủy Tinh trong cuộc đua giành cưới công chúa Mị Nương con gái vua Hùng. Cuộc chiến giữa những vị thần đã tái hiện chân thực sự khắc nghiệt tàn bạo của những thiên tai, lũ lụt, mưa bão xảy ra hàng năm trên đất nước ta khiến cuộc sống của người dân cực khổ trăm bề. Thế nhưng trước sức mạnh, sự khắc nghiệt của thiên tai người dân chưa bao giờ nao núng sợ hãi trước những thiên tai này mà họ vẫn kiên cường chống chọi, dũng cảm chiến đấu tới cùng. Qua cuộc chiến giữa hai vị thần, tác giả dân gian đã thể hiện rõ ước mơ của nhân dân về công lý, lẽ phải, cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác. Đồng thời qua truyện này ca ngợi tinh thần dựng nước và giữ nước của các vị vua hùng ở nước ta. Cho đến nay câu chuyện vẫn giữ nguyên được giá trị của nó như nhắc nhở con cháu đời sau phải biết nối tiếp, gìn giữ những truyền thống về tinh thần chính nghĩa và lòng quả cảm trước những gian khó cuộc đời.
Câu 57:
Câu 58:
Câu 59:
Hà Nội trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của thời gian, lịch sử vẫn mang trong mình những nét đẹp cổ kính với bề dày lịch sử, văn hóa sâu xa. Và một trong những nét đẹp khiến người ta nhớ đến Hà Nội nhiều nhất chính là Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện về người anh hùng dân tộc Lê Lợi trả gươm rùa thần. Chuyện kể rằng vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, cuộc sống của nhân dân ta rơi vào cảnh lầm than, bế tắc. Người dân căm hận quân thù đến tận xương tủy. Trước tình cảnh đất nước lầm than, nghĩa quân Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa. Thế nhưng những buổi đầu do lực lượng còn yếu, thế giặc mạnh nên bị thua trận nhiều. Hay tin này, Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để dẹp giặc.
Có người dân chài tên là Lê Thận. Một đêm nọ, đi đánh cá ở bờ sông vắng, sau hai lần quăng chài Thận chỉ kéo được một thanh sắt. Đến lần thứ 3, vẫn là thanh sắt đó Thận mới soi đèn xem kĩ, thì phát hiện ra đó là một lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Về sau, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Chàng hăng hái, gan dạ không hề sợ nguy hiểm. Một lần Lê Lợi đến thăm nhà Thận. Trong căn nhà tranh đơn sơ lại có thứ ánh sáng lạ tỏa ra từ góc nhà. Lê Lợi đến xem thì thấy đó là ánh sáng của lưỡi gươm trên đó có hai chữ Thuận Thiên. Nhưng lúc ấy tất cả mọi người vẫn không hề biết đó là gươm báu.
Một lần bị giặc đuổi, Lê Lợi cùng tướng sĩ phải rút chạy mỗi người một ngả. Khi băng qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy trên ngọn cây đa có ánh sáng lạ. Ông trèo lên cây mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Lúc này, Lê Lợi nhớ đến lưỡi gươm có khắc chữ Thuận Thiên ở nhà Thận, ông dắt chuôi gươm bên mình. Trở về, Lê Lợi lệnh cho Lê Thận mang lưỡi gươm đến, hỏi rõ nguồn gốc mới biết đây chính là ý trời giúp dân làm việc lớn.
Có được gươm thần, nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng lớn, bách chiến bách thắng quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi. Đuổi được giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua. Trong một lần ngự uyển quanh hồ Tả Vọng, Long Vương đã sai Rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Từ đó về sau hồ Tả Vọng có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Tên gọi ấy là biểu tượng cho một vũ khí chính nghĩa, cho tinh thần dân tộc kiên cường và nhắc người dân luôn nhớ về chiến thắng vẻ vang của dân tộc, thực hiện tốt đạo lý uống nước nhớ nguồn, giữ gìn bờ cõi.