Tóm tắt Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (20 mẫu) mới nhất 2023

Hamchoi.vn giới thiệu đến bạn Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) Ngữ văn lớp 9 mới nhất 2023 gồm 20 mẫu khác nhau giúp bạn nắm được trọng tâm văn bản Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) từ đó học tốt môn Ngữ văn 9.

1259 lượt xem


Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) - Ngữ văn 9

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

 

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 1)

Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Thật vậy, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình, tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vậy. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác dụng sâu xa đến cảm xúc thẩm mĩ của người đọc. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bức tranh như thế. Cho nên, có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” được sách tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

Bị Mã Giám Sinh đẩy vào lầu xanh rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ vốn liếng “đi đời nhà ma”, mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình.

Nơi đất khách quê người thân bị giam lỏng, cô bé bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn mới mây, khuya làm bạn với đèn, thao thức, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đớn đau…

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật, cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 2)

Đọc Truyền Kiều của Nguyễn Du, mấy ai mà không xúc động khi đọc đến đoạn trích “Kiểu ở lầu Ngưng Bích”. Biết bao sự kiện đau lòng dồn dập đã xẩy đến với Kiều? Vì chữ hiếu phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình chuộc cha bị lừa gạt, phải tự vẫn, rồi được đưa ra ỷ lầu Ngưng Bích để làm gái mại dâm “gà chõng” – Đoạn truyện là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

Mặc dầu Kiều chưa dự kiến hết đoạn đời niềm vui lâu năm lưu lạc đầy chông gai mà nàng sẽ đi, tâm trạng của nàng khi ở lầu Ngưng Bích đã là dự đón về những đắng cay mà nàng sắp phải chịu. Tâm trạng ấy đã trở nên bất tử qua ngọn bút miêu tả của Nguyễn Du.

Toàn bộ đoạn trích là cả một nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mang vô tận. Buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người. Một nỗi buồn không ai chia sẻ. Cảnh vật ở đây như một bức tranh có không gian “trước lầu Ngưng Bích”, có thời gian “mây sớm đèn khụya”. Trong cảnh vật ấy lại có con người “nàng Kiều”.

Ta có thể hình dung Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích. Lầu thì vắng mà Kiều thì chỉ có một mình, Kiềụ cảm thấy rất cô đơn, cảnh vật với con người như gắn chặt với nhau – cảnh vật hiện ra được vẽ lại qua con mắt của nàng Kiều.

“Nửa tình nửa cảnh”, một nửa là tâm sự của Thúy Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối ấy phụ họa với nhau mà tác động tới Kiều – chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan tác hơn, đau đớn hơn.

Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngư­ng Bích”quả thật là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Với cách lựa chọn thiên nhiên hết sức chính xác, kết hợp với ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các điển tích, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, nhà thơ đã diễn tả chân thực, cụ thể, tinh tế, diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi phải sống ở lầu Ngư­ng Bích.

Đó là lỗi cô đơn, buồn tủi, thư­ơng nhớ ng­ười thân tha thiết, nỗi buồn lo, hãi hùng. Nhà thơ đã thấu hiểu tâm trạng của Kiều cũng có nghĩa là nhà thơ đồng cảm với nhân vật, cảm thông chia sẻ với nỗi đau của Kiều. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân văn. Vì thế đọc đoạn trích này ta thấy, Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ thiên tài trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng mà còn là nhà thơ của trái tim nhân đạo.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 3)

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giam Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, nàng định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải đưa nàng ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích với lời hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 4)

Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.

Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.

Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.

Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 5)

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh. Khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối.

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khóa xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục.

Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô gợn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.

Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán nản, buồn tủi.

Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 6)

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Sau bao biến cố khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng, chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh.

Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi nhục của Thúy Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 7)

Trong Truyện Kiều có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn nào thể hiện được tâm trạng bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Biết Kiều tính cách khẳng khái, cứng rắn, Tú Bà đã cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác.

Trong thời gian này, sức khỏe của Kiều mới hồi phục trở lại, nhưng tình cảm lại hết sức cô đơn. Chết thì nàng đã không muốn chết nữa vì sợ bị lụy cho cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào, một thân một mình ở nơi hoàn toàn xa lạ, tứ cố vô thân? Đây là đoạn thơ hay nổi tiếng của Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đát đó của nàng Kiều.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 8)

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lý. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó.

Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 9)

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, tôi đau đớn, tủi nhục tìm đến cái chết. Tú Bà sợ mất vốn vội khuyên can, vờ hứa hẹn sẽ gả tôi cho một người tử tế. Mụ đưa tôi ra sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng, lập mưu buộc tôi sống cảnh “cuộc vui suốt tháng; trận cười thâu đêm”.

Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó cao ngất nghểu, đứng trên lầu như sắp với được mặt trăng. Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Tôi sống ở đó, sớm làm bạn với trời mây, đêm làm bạn với ngọn đèn, thui thủi một mình một bóng.

Cô đơn, tôi nhớ tới Kim Trọng, người đã cùng mình thề nguyền gắn bó rồi chính mình đã phụ lời nguyền. Giờ này chắc hẳn Kim Trọng vẫn đang chờ mong tin tức của mình, đâu biết rằng tôi đã phải bán mình vào nơi nhơ bẩn, một mình bơ vơ nơi góc biển chân trời. Tôi đau đớn nghĩ, tấm lòng son trong trắng dành cho Kim Trọng nay đã bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho sạch mà còn mong xứng đáng với chàng?

Buồn thương, tôi nhớ đến cha mẹ. Tôi thương cha xót mẹ sáng chiều tựa cửa trông ngóng tin con. Tôi xót xa nghĩ, lúc cha mẹ tuổi già sức yếu lẽ ra mình phải ở bên để đỡ đần, phụng dưỡng thì nay lại phải xa xôi cách biệt. Tôi tự hỏi, không biết giờ đây ai đang chăm sóc cha mẹ, ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ được yên giấc?

Kể từ ngày xa cha mẹ đến nay đã mấy mùa mưa nắng. Quê nhà chắc đã nhiều sự đổi thay. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà con thì lưu lạc xứ người… Nghĩ đến đây, lòng tôi vô cùng đau đớn, nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng.

Buồn bã, tôi trông ra cửa biển. Chiều buông, cả một vùng nước non bát ngát, hoang vắng. Xa xa, thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Thuyền ơi đi về đâu? Tôi ngước nhìn lên ngọn thác, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi. Hoa ơi trôi về đâu? Tôi trông sang nội cỏ, chân mây, mặt đất… Tất cả, tiếp nối nhau thành một màu xanh rợn ngợp. Cuối cùng, tôi trông xuống mặt duềnh. Ngọn gió thổi mạnh cuốn theo sóng biển ầm ầm, thét gào xung quanh như một dự báo hãi hùng về số phận, cuộc đời mình.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 10)

Gia đình bị vu oan, bị lừa, bị làm nhục và bị đẩy vào lầu xanh, Kiều rút dao tự vẫn nhưng không chết. Tú Bà đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu mới. Với tâm trạng bẽ bàng, Kiều nhớ tới người yêu, nhớ cha mẹ và quay lại tự đối thoại với lòng mình.Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.

 

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 11)

Những vần thơ buồn thương mênh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người "bạc mệnh" ngày xửa...Sau khi bị lừa, bị"thất thân" với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, hơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. 

 

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 12)

Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày. au khi bị lừa, bị"thất thân" với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, hơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Tự trách mình không báo hiếu được cho cha mẹ, nàng nhớ tới quê hương, khóc thương cho số phận lênh đênh, báp bênh vô định của mình, để rồi nỗi buồn từ từ tăng lên đến mức "ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 13)

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện Kiều. Sau khi bị gửi vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn nên đưa Kiều đi giam lỏng ở lầu Ngưng Bích chờ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích kể về một đêm Kiều ở lầu Ngưng Bích: Nàng nhìn thấy núi và trăng như ở cùng trong một vòm trời, trong một bức tranh, trông ra bốn bề rộng bát ngát, thấy những bụi cây có sắc đỏ do gió bốc lên trên cát vàng, Kiều thấy cảnh vật buồn như chính mình đang buồn vậy, rồi liên tưởng đến Kim Trọng chưa biết gì đang trông ngóng chờ Kiều vô ích, nàng cảm thấy cô đơn, tủi thân. Đoạn thơ lã những âm thanh dữ dội “gió cuốn, sóng kêu” như báo trước những dông tố của cuộc đời sắp ập xuống cuộc đời Kiều.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 14)

" Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ cảm động nhất trong Truyện Kiều, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mênh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người "bạc mệnh", Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, hơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Nàng nhớ chàng Kim "bên trời góc bể bơ vơ...Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên... Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 15)

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện Kiều. Sau khi bị gửi vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn, Tú Bà sợ mất vốn nên đưa Kiều đi giam lỏng ở lầu Ngưng Bích chờ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích kể về một đêm Kiều ở lầu Ngưng Bích: Nàng nhìn thấy núi và trăng như ở cùng trong một vòm trời, trong một bức tranh, trông ra bốn bề rộng bát ngát, thấy những bụi cây có sắc đỏ do gió bốc lên trên cát vàng,

Kiều thấy cảnh vật buồn như chính mình đang buồn vậy, rồi liên tưởng đến Kim Trọng chưa biết gì đang trông ngóng chờ Kiều vô ích, nàng cảm thấy cô đơn, tủi thân, nhớ đến cha mẹ già ở nhà không ai phụng dưỡng, tự trách mình không báo hiếu được cho cha mẹ, nàng nhớ tới quê hương, khóc thương cho số phận lênh đênh, báp bênh vô định của mình, để rồi nỗi buồn từ từ tăng lên đến mức “ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 16)

Gia đình bị vu oan, bị lừa, bị làm nhục và bị đẩy vào lầu xanh, Kiều rút dao tự vẫn nhưng không chết. Tú Bà đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu mới. Với tâm trạng bẽ bàng, Kiều nhớ tới người yêu, nhớ cha mẹ và quay lại tự đối thoại với lòng mình.

Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Mỗi cảnh vật đều làm rõ một nét tâm trạng của Kiều.

Một không gian mênh mông cửa bể chiều hôm gợi nỗi buồn mênh mông như trời biển. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, biến mất trong hoàng hôn biển gợi nỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ, gợi hành trình lưu lạc. Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ gia đình, quê hương và khát khao sum họp đến nao lòng.

Nhìn cảnh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa, Kiều buồn và liên tưởng tới thân phận mình cũng như cánh hoa lìa cội, lìa cành bị ném vào dòng đời đục ngầu thác lũ. Hình ảnh “hoa trôi” gợi kiếp người trôi nổi, bập bềnh, lênh đênh, vô định và một tâm trạng lo lắng sợ hãi cho tương lai vô định của mình.

Nhìn cảnh nội cỏ nhạt nhoà, mênh mông “rầu rầu”: màu của sự úa tàn, thê lương ảm đạm (giống màu cỏ ở nấm mộ Đạm Tiên, khác màu cỏ trong tiết thanh minh), Kiều có tâm trạng mệt mỏi chán chường, tuyệt vọng và cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh với một tương lai mờ mịt, hãi hùng.

Khép lại đoạn thơ lã những âm thanh dữ dội “gió cuốn, sóng kêu” như báo trước những dông tố của cuộc đời sắp ập xuống cuộc đời Kiều. Nàng hốt hoảng, kinh hoàng- chới với như sắp bị rơi xuống vực thẳm sâu của định mệnh.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 17)

Thúy Kiều là cô gái có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, sinh ra và lớn lên trong một gia đình viên quan ngoại có ba chị em. Một lần, trong dịp du xuân, nàng đã gặp một tài tử hào hoa phong nhã là Kim Trọng. Hai người đem lòng yêu nhau, đính ước với nhau sẽ ở bên nhau trọn đời trọn kiếp. Tình yêu của hai người vô cùng tốt đẹp cho đến khi gia đình Kiều gặp nạn.

Cha và em bị bắt, không còn cách nào khác, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và trao lại mối nhân duyên này cho cô em gái Thúy Vân. Kiều bị Tú Bà và Mã Giám Sinh bán vào lầu xanh, ở đây, bọn chúng hành hạ, dày xéo, có lần Kiều định bỏ trốn thì bị Sở Khanh bắt lại, sau những trận đòn roi, Kiều buộc phải tiếp khách.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 18)

” Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ cảm động nhất trong Truyện Kiều, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mênh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người “bạc mệnh” ngày xửa…Sau khi bị lừa, bị”thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn.

Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu, hơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, biết cùng ai lâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp sóng dâng lên trong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương lựa “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?.

Nàng nhớ chàng Kim “bên trời góc bể bơ vơ…Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 19)

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh “êm đềm trước rủ màn che”, sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà mụ chủ lầu xanh. Do chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để xoa dịu và thực hiện âm mưu mới. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du, một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh đã khắc hoạ tâm trạng cô đơn buồn tủi, tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Thúy Kiều, một con người xinh đẹp tài năng mà bất hạnh.

Bốn câu đầu trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” miêu tả cảnh lầu Ngưng Bích thật thơ mộng, nhưng lại hoang vắng đến rợn người

Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé. Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, càng tô đậm thêm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều

Không gian càng xa rộng, lòng người càng thêm trống trải, đau buồn. Sự tuần hoàn của thời gian, sự đằng đẵng mỏi mòn, càng thêm vô vọng. Tâm trạng của Kiều đầy đau buồn, xấu hổ, tủi thẹn với thiên nhiên, với lòng mình, với những người thân yêu. Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.

Nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ tới quãng thời gian hai người cùng hạnh phúc bên nhau, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc. Kiều dường như đắm chìm trong tâm trạng nhớ nhung, nàng thương Kim Trọng đang mong chờ mình vô vọng, không biết Kiều đã lỗi hẹn xưa.

Nhưng thương người rồi lại thương mình, tâm trạng Kiều đau đớn xót xa. Rồi Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông, thương cho cha me ngày càng già, day dứt không được ở cận kề chăm sóc.

Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy nàng. Nhìn đâu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình như một định mệnh không sao thoát ra được.

Điều đáng quý ở đây là: trong hoàn cảnh cô đơn, bẽ bàng vậy mà Kiều lại quên phận mình, thương nhớ tới người thân. Đó chính là đức hi sinh, lòng vị tha, tấm lòng chung thuỷ và hiếu thảo của Kiều, đây chính là nét đẹp tâm hồn của Kiều.

Kiều nhớ thương cha mẹ, quê hương mong ước có ngày đoàn tụ. Kiều đau đớn cho thân phận của mình, xót cho tình yêu dở lỡ, ám ảnh về cuộc đời vô định

Đây là đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều. Với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, bốn cặp thơ như bộ tứ bình, điệp ngữ “buồn trông” lập lại ở đầu mỗi câu thơ, cùng với hệ thống từ láy “thấp thoáng”, ” xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh” gợi lên nỗi buồn da diết, triền miên, thăm thẳm và chồng chất.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu, một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, miêu tả bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc những xót xa khôn nguôi về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Một tấm lòng nhân hậu yêu thương, cảm thông của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều mãi mãi để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc.

Tóm tắt Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều) (mẫu 20)

Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất tài hoa điêu nghệ trong việc tả cảnh, tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy.

Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà bán thịt buôn người. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình. Kiều đã liều tự sát. Sợ bị mất món lời to, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều và tạm cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích, với lời hứa sẽ gả chồng tử tế cho nàng. Trong những ngày này, Kiều sống trong tâm trạng khôn xiết buồn bã, đau đớn. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

Đoạn trích trên nói lên tâm trạng nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích: buồn tủi, thương nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, xót thựơng thân phận cay đắng của mình.

Đoạn thơ là một minh chứng tỏ quan điểm: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Cảnh vật thiên nhiên ở đây bị bao phủ một nỗi buồn trĩu nặng bởi Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn tơ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh là Kiều.

Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chốn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.

Sáu câu đầu là cảnh lầu Ngưng Bích. Cảnh được tác giả vẽ lên bằng những nét chấm phá: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp, nhưng thật buồn, mênh mông hoang vắng, lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng nàng Kiều.

Cha mẹ, các em, người yêu,… tất cả đã xa xôi, cách biệt với Kiều. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Kiều chẳng khác gì một chú cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nổi lòng nàng trong tình huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi cạn.

Cảnh buồn hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ. Nàng nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng.

Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.

Cảnh và tình cứ đan xen, hòa quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói, đây là một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều.

Bài viết liên quan

1259 lượt xem