Cảm nhận về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (15 mẫu) mới nhất 2023

Cảm nhận về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều lớp 9 Cánh diều gồm 15 bài văn mẫu 2023 mới, hay nhất giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.
215 lượt xem


Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” - Ngữ văn 9

Dàn ý Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”

1. Mở Bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều"

2. Thân Bài

- Đoạn trích khắc họa sống động hình tượng nhân vật phản diện Mã Giám Sinh - một tên buôn người bịp bợm, xảo quyệt

+ Qua lời nói: Đối lập với danh xưng "viễn khách", hắn ta lộ rõ sự gian dối khi ngay lập tức sơ hở rằng quê ở lâm thanh

+ Hình thức: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao lộ rõ vẻ khoa trương kệch cỡm của một kẻ buôn người

+ Hành động, cử chỉ: Ngồi tót sỗ sàng cho thấy đây là một kẻ vô học, vô văn hóa. Hắn xem Kiều như một món hàng có thể cân đo đong đếm. Hắn "mua" nàng với giá chỉ ngoài bốn trăm.

- Tố cáo thế lực buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền và một xã hội mục ruỗng thối nát.

- Không chỉ khắc họa hình tượng Mã Giám Sinh, tác giả còn cho thấy nỗi tủi nhục và cam chịu của Thúy Kiều khi bị đưa ra mua bán:

+ Nàng vừa tức nỗi nhà vừa thương thay cho chính số phận nghiệt ngã của mình

+ Kiều tự xem mình là cánh hoa trước gió, dù còn "dạn gió, e sương" vẫn phải "vén tóc, bắt tay"

 

+ Nàng dự cảm thấy tương lai mù mịt sắp tới của chính mình

- Tình cảm, sự thương xót của Nguyễn Du đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Kết Bài

- Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm 

 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 1)

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Khách đến mua Kiều là "người viễn khách" được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách" đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Khách tự giới thiệu mình là "kẻ sĩ” - sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần". Hai chữ "rằng" nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của " viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh",

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".

Đọc “Truyện Kiều" ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách". Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên". Sống ở Lâm Tri "Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề". Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần" mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người "Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa".

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tụần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi" của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao" của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối.“Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao" là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau lưng theo một vài thằng con con.

" Vài thằng con con" là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy - tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

Trước thầy sau tớ lao xao

Mới được mụ mối "rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Cái lối “ngồi tót" là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người". Cái cử chỉ “sỗ sàng" là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa" mới có lối "ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay" món hàng thì hắn "cân sắc” rồi “cân tài", hắn “ép", hắn “ thử', hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng

Đắn đo cân sức cân tài,

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu" mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi', nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!" là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán... để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân" như Tú Bà đã hạ nhục hắn.Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn "buôn phấn bán hương" trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 2)

Nàng Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu kiếp hồng nhan bạc phận, chịu kiếp truân chuyên chìm nổi suốt mười lăm năm. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng vì biến cố bất ngờ Thúy Kiều đã quyết định bán mình cứu cha. Và quyết định này cũng đã tạo ra bước ngoặt lớn cho hành trình mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể về việc bán mình cho Mã Giám Sinh cùng tâm trạng đầy đau đớn của nàng.

Mã Giám Sinh mua Kiều nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc. Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn trích này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn dan

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Trước sự dẫn dắt của mụ mối, Mã Giám Sinh đã đến nhà Kiều và bắt đầu cuộc mua bán. Theo sự giới thiệu của bà mối, Mã Giám Sinh là một người khách ở xa đến “viễn khách”, thế nhưng trong lời giới thiệu của mình, hắn ta đã để lộ ra những mâu thuẫn, sơ hở. Hắn ta giới thiệu mình ở Huyện Lâm Thanh, cũng gần. Như vậy ngay trong lời nói ta đã thấy hắn là một con người có chút gian sảo. Ngay tên tuổi cũng được hắn ta đánh bóng với “mác” là thư sinh của trường Quốc Tử Giám, nghĩa là hắn là người có ăn có học.

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Thế nhưng trong sự miêu tả của Nguyễn Du, ta lại có cảm nhận hoàn toàn khác biệt về nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn ta nhận mình là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng ngoại hình “quá niên trạc tuổi tứ tuần” của mình đã tạo ra sự mâu thuẫn trong lời nói. Hình dáng chải chuốt dị hợm, kệch cỡm không hợp tuổi cũng đã phần nào bóc trần được bộ mặt giả dối của hắn “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đoàn tôi tớ đi theo hầu cũng lộn xộn, huyên náo như những người đi thuê “trước thầy sau tớ lao xao”, nếu thực sự Mã Giám Sinh là một người có gia giáo, và những người đầy tớ kia là thực thì sẽ không có cảnh “lao xao”, vô phép tắc như vậy

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Mọi lời giới thiệu bóng bẩy về gia thế, học vấn của mình đều bị phá vỡ trước những hành động kệch cỡm, vô học của Mã Giám Sinh khi vào nhà của Kiều. “Ghế trên” là ghế dành cho những người bề trên, bậc phụ mẫu, nhưng với tư cách của một người đi hỏi vợ, Mã Giám Sinh đã không biết hoặc hắn ta không quan tâm mà lựa chọn cho mình chỗ thích hợp nhất cho cuộc mua bán. Chính hành động ấy đã bóc trần bản chất vô lại của một tên buôn người. Trái ngược với sự hỗn hào, vô học của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều mang tâm trạng đau đớn, bất an, mỗi bước đi lệ rơi mấy hàng “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.

“Ngại ngùng rợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày

Mối càng vén tóc bắt tay

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”

Trước cuộc sống đầy bất an phía trước, Thúy Kiều mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, đây cũng là nét tâm lí thông thường của con người khi đứng trước những biến cố. Trong khi mụ mối cố gắng chào mồi bằng những lời ngon ngọt thì Thúy Kiều trong vị thế của người bị bán thì u buồn “buồn như cúc, điệu gầy như mai”. 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 3)

Top 6 Bài văn phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích "Mã Giám Sinh  mua Kiều" hay nhất - Toplist.vn“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây

Hai trăm năm lại càng say lòng người”.

(Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)

Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”

Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:

"Chung lưng mở một ngôi hàng

Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”

Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì !Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”

hoặc một Thúy Kiều:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:

“Đắn đo cân sắc, cân tài

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi. Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo.Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”

Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn

“Cò kè bớt một thêm hai

Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”

Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót:

“Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”

Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 4)

Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.

Trong dịp thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử của người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi sống làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước.

Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người – Mã Giám Sinh.

Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng.

Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu dấm dẳn nghe trào tiếu đến mức phải bật cười:

“Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh;

Hỏi quê – rằng – huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng: “Quá niên …bảnh bao” / “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ tót trong ngồi tót của họ Mã, cũng như từ lẻn tả Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những nhãn từ trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngày tư khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện.

Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng “Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ. “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng..” vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.

Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: “Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “cành hoa đem bán cho phường lái buôn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớn mà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.

Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn:

“Đắn đo cân sắc cân tài 

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay sở đủ cách như cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hỏi dù với cái giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về:

“Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều.

Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.” 

Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm. Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài 400 lượng vàng. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được ngụy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như cánh thiếp, nạp thái, vu quy đều là sự bôi đen lên tấm thân nghiêng nước, nghiêng thành.

Kết thúc tấn bi hài kịch này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau và có lẽ khách quan nhưng thực ra là đáng sợ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thò ra lấy con mồi của nó:

“Định ngày nạp thái vu quy 

Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong…” 

Nghĩa là đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu ly… Nàng đã rứt ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vấp vào những hang ổ miệng hùm, nọc rắn. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh 

Bốn phương lẳng lặng, hai kinh vững vàng”

Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế là giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp.

Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con người, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không thể tiếc thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 5)

Nàng Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu kiếp hồng nhan bạc phận, chịu kiếp truân chuyên chìm nổi suốt mười lăm năm. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng vì biến cố bất ngờ Thúy Kiều đã quyết định bán mình cứu cha. Và quyết định này cũng đã tạo ra bước ngoặt lớn cho hành trình mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể về việc bán mình cho Mã Giám Sinh cùng tâm trạng đầy đau đớn của nàng.

Mã Giám Sinh mua Kiều nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc. Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn trích này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Trước sự dẫn dắt của mụ mối, Mã Giám Sinh đã đến nhà Kiều và bắt đầu cuộc mua bán. Theo sự giới thiệu của bà mối, Mã Giám Sinh là một người khách ở xa đến “viễn khách”, thế nhưng trong lời giới thiệu của mình, hắn ta đã để lộ ra những mâu thuẫn, sơ hở. Hắn ta giới thiệu mình ở Huyện Lâm Thanh, cũng gần. Như vậy ngay trong lời nói ta đã thấy hắn là một con người có chút gian sảo. Ngay tên tuổi cũng được hắn ta đánh bóng với “mác” là thư sinh của trường Quốc Tử Giám, nghĩa là hắn là người có ăn có học.

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Thế nhưng trong sự miêu tả của Nguyễn Du, ta lại có cảm nhận hoàn toàn khác biệt về nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn ta nhận mình là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng ngoại hình “quá niên trạc tuổi tứ tuần” của mình đã tạo ra sự mâu thuẫn trong lời nói. Hình dáng chải chuốt dị hợm, kệch cỡm không hợp tuổi cũng đã phần nào bóc trần được bộ mặt giả dối của hắn “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đoàn tôi tớ đi theo hầu cũng lộn xộn, huyên náo như những người đi thuê “trước thầy sau tớ lao xao”, nếu thực sự Mã Giám Sinh là một người có gia giáo, và những người đầy tớ kia là thực thì sẽ không có cảnh “lao xao”, vô phép tắc như vậy.

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Mọi lời giới thiệu bóng bẩy về gia thế, học vấn của mình đều bị phá vỡ trước những hành động kệch cỡm, vô học của Mã Giám Sinh khi vào nhà của Kiều. “Ghế trên” là ghế dành cho những người bề trên, bậc phụ mẫu, nhưng với tư cách của một người đi hỏi vợ, Mã Giám Sinh đã không biết hoặc hắn ta không quan tâm mà lựa chọn cho mình chỗ thích hợp nhất cho cuộc mua bán. Chính hành động ấy đã bóc trần bản chất vô lại của một tên buôn người. Trái ngược với sự hỗn hào, vô học của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều mang tâm trạng đau đớn, bất an, mỗi bước đi lệ rơi mấy hàng “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.

“Ngại ngùng rợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày

Mối càng vén tóc bắt tay

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”

Trước cuộc sống đầy bất an phía trước, Thúy Kiều mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, đây cũng là nét tâm lí thông thường của con người khi đứng trước những biến cố. Trong khi mụ mối cố gắng chào mồi bằng những lời ngon ngọt thì Thúy Kiều trong vị thế của người bị bán thì u buồn “buồn như cúc, điệu gầy như mai”.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 6)

Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.

Trong dịp thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử của người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi sống làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước.

Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người – Mã Giám Sinh.Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng.Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu dấm dẳn nghe trào tiếu đến mức phải bật cười:

“Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh;

Hỏi quê – rằng – huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng: “Quá niên …bảnh bao” / “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ tót trong ngồi tót của họ Mã, cũng như từ lẻn tả Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những nhãn từ trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngày tư khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện.Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng “Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ. “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng..” vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.

Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: "Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “cành hoa đem bán cho phường lái buôn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớn mà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn:

"Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ"

Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay sở đủ cách như cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hỏi dù với cái giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về:

"Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều.

Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường."

Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm. Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài 400 lượng vàng. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được ngụy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như cánh thiếp, nạp thái, vu quy đều là sự bôi đen lên tấm thân nghiêng nước, nghiêng thành.Kết thúc tấn bi hài kịch này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau và có lẽ khách quan nhưng thực ra là đáng sợ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thò ra lấy con mồi của nó:

"Định ngày nạp thái vu quy

Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong…"

Nghĩa là đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu ly… Nàng đã rứt ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vấp vào những hang ổ miệng hùm, nọc rắn. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

"Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương lẳng lặng, hai kinh vững vàng"

Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế là giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp.Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con người, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không thể tiếc thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người. 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 7)

“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người”.
(Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)

Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.

Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.

Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.

Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:

“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”

Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:

"Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”

Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì !

Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”

hoặc một Thúy Kiều:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:

“Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi. Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo.

Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”

Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn:

“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”

Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót:

“Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”

Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.

Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”(mẫu 8)

Thành công của Nguyễn Du trong Truyện Kiều không chỉ ở tấm lòng nhân đạo cao cả, tình yêu thương vô hạn đối với con người mà còn thể hiện ở thái độ căm ghét đối với lũ người đe tiện, hèn hạ, vô nhân tính trong xã hội phong kiến đương thời. Trong đó, nhân vật Mã Giám Sinh là bức chân dung đầu tiên xuất hiện trong Truyện Kiều với những thói xấu, sự đê tiện, vô văn hóa, một kiểu con buôn điển hình.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều nằm ở phần đầu thư hai Gia biến và lưu lạc, mở đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương. Sau khi gia đình Kiều bị tên bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị bọn sai nha bắt giữ, đánh đập dã man. Nhà cửa cũng bị chúng lục soát, của cải bị vơ vét đi hết. Vì để có đủ tiền cứu cha và em ra khỏi tình cảnh khốn khổ đó, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình thoát khỏi tai họa. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều qua mai mối mách bảo. Tác giả miêu tả thật kĩ lưỡng bức chân dung của nhân vật Mã Giám Sinh bằng những lời lẽ khinh bỉ nhất:

Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Viễn khách là khách ở xa đến. Mã Giám Sinh nghĩa là Giám Sinh họ Mã. Giám Sinh là tên học trò ở Quốc Tử Giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám Sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh người ta mua của triều đình. Giới thiệu Mã Giám Sinh, ngay từ đầu, tác giả đã mập mờ tung tích như chính cái bản chất đê tiện, đớn hèn của hắn.

Bút pháp hiện thực miêu tả nhân vật phản diện Mã Giám Sinh hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách. Hắn có lời nói cộc lốc, vô văn hóa, con nhà thất học, hoàn toàn ngược lại với danh tính mà hắn đã giới thiệu. Khi được hỏi, hắn trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Cái nhố nhăng, kịch cỡm và dối trá cũng thể hiện ngay trên dung mạo của hắn. Dù đã ngoài bốn mươi cái tuổi “quá niên trạc ngoại tứ tuần” nhưng Mã Giám Sinh vẫn cô tỏ ra trẻ trung “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” để đi cưới vợ. Với diện mạo của một gã trai râu cạo “nhẵn nhụi” (từ “nhẵn nhụi” thường được dùng cho đồ vật hơn là con người), ăn mặc “bảnh bao”, đỏm dáng, chải chuốt thái quá, có thể nói là diêm dúa, thành lố bịch, giả dối, không có dáng của một bậc chính nhân quân tử.

Cảnh thầy tớ nhặng xị, nhâng nháo: “trước thầy sau tớ lao xao”. Có lẽ đây đều cùng một phường buôn người nên thầy tớ không phân minh, lễ nghi không được tuân giáo.

Khi vào nhà, cử chỉ của hắn thật thô lỗ, quen thói “thị của khinh người”:

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.

Ghế trên là ghế dành cho bậc cao niên, trưởng bối, là chỗ ngồi tôn kính. Mã Giám Sinh đi hỏi vợ là hàng con cháu mà lại ngồi vào đó, không những bất kính mà cử chỉ thì rất nhanh và sỗ sàng của con nhà vô học, bất phúc. “Ngồi tót” là một từ ngữ rất tượng hình miêu tả hành động vô văn hóa ấy. Chi tiết này đã tố cáo Mã Giám Sinh đích thực là một kẻ vô học, tồi bại.

Về bản chất, nhân vật Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc tính giả dối, bất nhân vì tiền. Giả dối từ lai lịch xuất thân mù mờ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong vai người có học đi mua tì thiếp, tên họ và quê quán đều chẳng mấy rõ ràng. Mã Giám Sinh có thể hiểu là học sinh trường Quốc Tử Giám. Cũng có thể là chức giám sinh mua được của triều đình. Lại thêm không rõ hắn thuộc loại nào. Hắn giới thiệu quê ở xa “viễn khách” mà lại nói “cũng gần”. Như vậy, hắn đã hai lần nói dối để che dấu tung tích và dễ bề lừa gạt. Đến tướng mạo, tính danh cũng giả dối, tuổi tác đã nhiều nhưng lại cố tỏ ra tô vẽ ra cho trẻ, ra vẻ thư sinh, phong lưu, lịch sự mà “trước thầy sau tớ lao xao” rất láo nháo, ô hợp.

Bản chất bất nhân vì tiền của nhân vật Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán Thúy Kiều. Bất nhân trong hành động, thái độ đối xử với Kiều lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau, nhan sắc, tài hoa của Kiều, hắn coi Kiều như một món hàng, coi sắc, tài của nàng chỉ như giá trị của hàng hóa cái có thể khiến hắn kiếm lời.

Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Sau khi đã đắn đo cân sắc, cân tài, ép đàn “ép cung cầm nguyệt”, thử tài thơ “thử bài quạt thơ”. Bằng lòng vừa ý, hắn mới “tùy cơ dắt dìu”. Bất nhân trong tâm lý lạnh lùng, vô cảm trước gia cảnh của Kiều và tâm lý mãn nguyện, hóm hĩnh: “tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Lời nói lúc đầu nghe có vẻ văn hoa, lịch sự, biết người biết của: “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều – Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”. Nhưng chỉ được có một câu và sự mua bán vẫn lộ liễu:

Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Với con buôn, tiền nong là chuyện sinh tử nên đến lúc này hắn buộc phải nói nhiều đến việc mặc cả, dìm giá, tìm cách mua hàng với giá “hời nhất”. Hắn lập tức giở thói “cò kè bớt một, thêm hai” đến “giờ lâu” mới “ngã giá”. Câu thơ gợi cảnh kẻ mua, người bán đưa đẩy món hàng. Túi tiền được cởi ra, thắt vào, nâng lên, đặt xuống. Chi tiết mặc cả một cách đê tiện và trắng trợn, vừa thể hiện thực chất màn kịch “lễ vấn danh” chỉ là cảnh buôn thịt bán người trắng trợn, vừa tố cáo Mã Giám Sinh đích thị là kẻ buôn người lọc lõi đáng ghê tởm. Cái mặt nạ hỏi vợ của hắn lúc đã rơi tuột từ lúc nào.

Nhân vật phản diện Mã Giám Sinh được miêu tả bằng ngôn ngữ trực diện, bút pháp hiện thực. Nguyễn Du kết hợp nghệ thuật kể chuyện với miêu tả cảnh ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật hoàn hảo cả về diện mạo và tính cách, rất cụ thể, sinh động, mang ý nghĩa khái quát về một hạng người giả dối, vô học, bất nhân trong xã hội. Tất cả làm nổi bật bản chất con buôn lọc lõi của hắn. Vì tiền, y sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm con người lương thiện.

Mã Giám Sinh mua Kiều là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: vừa lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Đoạn trích còn cho thấy tài năng, nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc họa tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hóa nhân vật). 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 9)

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.

Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.

Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.
Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Khách đến mua Kiều là "người viễn khách" được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách" đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Khách tự giới thiệu mình là "kẻ sĩ” - sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần". Hai chữ "rằng" nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của " viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh",
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".

Đọc “Truyện Kiều" ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách". Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên". Sống ở Lâm Tri "Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề". Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần" mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người "Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa".

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tụần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi" của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao" của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối. “Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao" là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.

Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:

Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.

" Vài thằng con con" là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy - tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

Trước thầy sau tớ lao xao

Mới được mụ mối "rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Cái lối “ngồi tót" là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người". Cái cử chỉ “sỗ sàng" là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa" mới có lối "ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!

Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay" món hàng thì hắn "cân sắc” rồi “cân tài", hắn “ép", hắn “ thử', hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng:

Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu" mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi', nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!" là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán... để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân" như Tú Bà đã hạ nhục hắn.

Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn "buôn phấn bán hương" trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 10)

Ý nghĩa to lớn của Truyện Kiều là tố cáo xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Cảnh mua bán người thật thương tâm trong truyện. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.

Trong dịp thanh minh vào tiết tháng ba, Kiều cùng hai em đi du xuân tảo mộ. Trên đường về gặp một nấm mồ hoang, Vương Quan thuật lại tiểu sử của người đàn bà nằm dưới mồ. Đó là Đạm Tiên – xưa là ca nhi sống làm vợ khắp người ta nhưng nay thì không ai đoái thương thắp cho nàng một nén hương. Với bản chất đa cảm, Kiều đã xót xa, thương cảm với số phận của Đạm Tiên, và cũng từ đó Đạm Tiên như là một người bạn tri kỉ vô hình để báo cho nàng về số kiếp đoạn trường sẽ diễn ra và kết thúc như thế nào. Nhưng tiếp đó Thúy Kiều gặp Kim Trọng là bạn đồng môn của Vương Quan. Mới chỉ qua giao tiếp buổi đầu nhưng tình cảm nảy nở như tiếng sét ái tình tình trong như đã mặt ngoài còn e. Ra về, mỗi người đều nảy sinh mối tình vương vấn, luyến lưu. Kim Trọng nặng lòng tương tư nên đã tìm nơi trọ ngay mé sau nhà Kiều. Nhờ đó hai người gặp gỡ rồi thề non hẹn ước.

Hai người gặp gỡ hò hẹn được một thời gian không lâu thì Kim Trọng phải về quê thọ tang chú ba năm, và gia đình Thúy Kiều thì rơi vào cảnh bị bọn bán tơ vu oan, nên nhà cửa tan tác, Vương Ông và Vương Quan bị bắt, đánh đập. Lúc này trong nhà chỉ có Thúy Kiều là món hàng đắt giá nhất để bán lấy số bạc chuộc cha và em ra khỏi nơi giam cầm. Nàng quyết định bán mình, làm xa gần nôn nao nhưng lại không dễ dàng thực hiện vì bạn bè thân quen của gia đình không ai dám mua và không nỡ mua. Trong lúc đang cần cứu cha và em, chậm một ngày là thêm một ngày đau khổ, thời cơ đã đến với kẻ buôn người – Mã Giám Sinh.Khi miêu tả cảnh Kiều gặp Kim Trọng và Kiều gặp Từ Hải, Nguyễn Du có hẳn những câu thơ giới thiệu chân dung nhân vật. Còn đối với Mã cũng là kẻ đến cưới nàng, nhưng hắn chỉ như một công cụ của số mệnh, của cái thế lực đen tối đến gieo tai họa. Tên lái buôn này chắc đang lùng sục khắp chợ cùng quê để mua người đẹp cho mẹ chủ chứa lầu xanh Tú Bà mà hắn cũng góp phần chung lưng.Ta thấy nhà thơ diễn tả hàng loạt lời nói động tác và thái độ vừa của mụ mối và của hắn với những câu dấm dẳn nghe trào tiếu đến mức phải bật cười:

“Hỏi tên – rằng Mã Giám Sinh;

Hỏi quê – rằng – huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cuối cùng thì nhà thơ cũng để cho hắn xuất hiện thực sự với những nét ngoại hình khá điển hình. Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng: “Quá niên …bảnh bao” / “Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “bảnh bao” là từ dùng để chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý mỉa mai. Vậy là ngay cả tư cách đàn ông, trượng phu của Mã Giám Sinh cũng bị phủ định. Tuy nhiên, câu thơ cũng có thể hiểu một cách khác: mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén tỉa tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao ra dáng một chú rể. Ở đây ta muốn đến với cái tài tình của nhà thơ là nói thật lại hóa giả, nói trắng lại hóa đen. Bởi vậy nghe những từ ấy ta không có hàm ý trang trọng, phản ánh đúng cái bản chất bên trong của hắn.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần của nhân vật chỉ bằng một từ, từ tót trong ngồi tót của họ Mã, cũng như từ lẻn tả Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến đã trở thành những nhãn từ trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Ngoại hình, cử chỉ, hành động của Mã Giám Sinh, ngày tư khi chưa bước vào cuộc mua bán đã được miêu tả rất khách quan nhưng rất chính xác, đó là một kẻ vô giáo dục, một kẻ không đáng tin cậy, không lương thiện.Phần tả cảnh mua người thật hiếm có, có kẻ mua người bán. Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xa của Kiều khi đem ra làm món hàng “Nỗi mình …mặt dày” / “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng đành tan vỡ. “nỗi nhà” là việc cha, việc em bị hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ: khóc cho mình, khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào khách, sao khỏi sượng sùng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật tái tình. Kiều đi ra với Mã Giám Sinh ví như cành hoa sắp gặp bão tố. Cho nên “ngại ngùng..” vì sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ mình Kiều cảm thấy.

Khi phải rơi vào tình cảnh bi đát của cuộc đời, Kiều đang tiều tụy đến cùng cực thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau bên trong đang giày vò nàng: "Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “cành hoa đem bán cho phường lái buôn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “cò kè…bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớn mà người mua còn cò kè thêm bớt mất nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu thơ “cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của Mã Giám Sinh chứ không phải là người đi kiếm vợ lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.Nguyễn Du đã tiếp tục khắc họa nhân vật họ Mã, bằng bút pháp tả thực còn sinh động hơn nữa qua cử chỉ, hành động buôn người của hắn:

"Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ"

Như vậy, dưới con mắt của hắn Thúy Kiều là một món hàng phải ép cái này thử cái kia, phải nhấc lên, đặt xuống xoay sở đủ cách như cân, đong, đo, đếm như hàng hóa vậy. Cuối cùng cái đích của sự mua bán là giá cả, hắn phải hỏi dù với cái giọng ngọt xớt giả nhân, giả nghĩa, nhưng kệch cỡm, vụng về:

"Hắn khai: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều.

Hắn hỏi: Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường."

Sau khi mụ mối định giá, hắn cò kè bớt một thêm hai từ một ngàn lạng, hắn chỉ ngã giá có ngoài bốn trăm. Vì hoàn cảnh đã đến bước đường cùng, Kiều buộc phải bán mình với giá ngoài 400 lượng vàng. Thế là cuộc mua bán bẩn thỉu được ngụy trang là lễ vấn danh và hàng loạt từ mĩ miều như cánh thiếp, nạp thái, vu quy đều là sự bôi đen lên tấm thân nghiêng nước, nghiêng thành.Kết thúc tấn bi hài kịch này, Nguyễn Du hạ hai câu thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau và có lẽ khách quan nhưng thực ra là đáng sợ như hàm răng của con cá sấu, là cái nanh vuốt của xã hội bắt đầu thò ra lấy con mồi của nó:

"Định ngày nạp thái vu quy

Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong…"

Nghĩa là đến đây số phận nàng Kiều đã được định đoạt bước sang một chặng đường đầy chông gai, gian khổ, lưu ly… Nàng đã rứt ra khỏi vòng tay êm ái của gia đình để vấp vào những hang ổ miệng hùm, nọc rắn. Ai có thể lường trước thân phận tài sắc của người con gái họ Vương. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

"Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương lẳng lặng, hai kinh vững vàng"

Ta có cảm nghĩ đó là cái xã hội êm ấm, thế là giữa thanh thiên bạch nhật gia đình họ Vương mắc oan, gỡ cái oan nghiệt này bằng cách bán đứa con đầu lòng tài hoa. Đang là cô gái lá ngọc cành vàng, tiết sạch giá trong, bước chân vừa mới chạm vào ngưỡng cửa hạnh phúc đã trở thành món hàng giữa chợ. Chua xót, bi phẫn cho người con gái chưa từng vào đời mà đã phải ra trước mắt người lạ để họ nhìn ngắm một cách sỗ sàng, thậm chí còn ép nọ thử kia để không chịu sự vô ý, hớ hênh mà mua đắt dù đó là người đẹp.Đoạn thơ đã miêu tả được hết toàn bộ câu chuyện mua bán người đang diễn ra, thể hiện sự bất công của xã hội đối với con người, đặc biệt là người phự nữ. Vẻ đẹp cũng như tài trí của nàng đều không được xã hội đón nhận, mà còn gây cho nàng những bất hạnh đến cùng cực. Đọc tác phẩm Truyện Kiều, không ai không thể tiếc thương cho số phận của nàng Kiều, và phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 11)

Nàng Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu kiếp hồng nhan bạc phận, chịu kiếp truân chuyên chìm nổi suốt mười lăm năm. Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng vì biến cố bất ngờ Thúy Kiều đã quyết định bán mình cứu cha. Và quyết định này cũng đã tạo ra bước ngoặt lớn cho hành trình mười lăm năm lưu lạc của Kiều. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều kể về việc bán mình cho Mã Giám Sinh cùng tâm trạng đầy đau đớn của nàng.

Mã Giám Sinh mua Kiều nằm trong phần thứ hai của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc. Sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai họa. Đoạn trích này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn dan

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Trước sự dẫn dắt của mụ mối, Mã Giám Sinh đã đến nhà Kiều và bắt đầu cuộc mua bán. Theo sự giới thiệu của bà mối, Mã Giám Sinh là một người khách ở xa đến “viễn khách”, thế nhưng trong lời giới thiệu của mình, hắn ta đã để lộ ra những mâu thuẫn, sơ hở. Hắn ta giới thiệu mình ở Huyện Lâm Thanh, cũng gần. Như vậy ngay trong lời nói ta đã thấy hắn là một con người có chút gian sảo. Ngay tên tuổi cũng được hắn ta đánh bóng với “mác” là thư sinh của trường Quốc Tử Giám, nghĩa là hắn là người có ăn có học.

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Thế nhưng trong sự miêu tả của Nguyễn Du, ta lại có cảm nhận hoàn toàn khác biệt về nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn ta nhận mình là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng ngoại hình “quá niên trạc tuổi tứ tuần” của mình đã tạo ra sự mâu thuẫn trong lời nói. Hình dáng chải chuốt dị hợm, kệch cỡm không hợp tuổi cũng đã phần nào bóc trần được bộ mặt giả dối của hắn “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Đoàn tôi tớ đi theo hầu cũng lộn xộn, huyên náo như những người đi thuê “trước thầy sau tớ lao xao”, nếu thực sự Mã Giám Sinh là một người có gia giáo, và những người đầy tớ kia là thực thì sẽ không có cảnh “lao xao”, vô phép tắc như vậy

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Mọi lời giới thiệu bóng bẩy về gia thế, học vấn của mình đều bị phá vỡ trước những hành động kệch cỡm, vô học của Mã Giám Sinh khi vào nhà của Kiều. “Ghế trên” là ghế dành cho những người bề trên, bậc phụ mẫu, nhưng với tư cách của một người đi hỏi vợ, Mã Giám Sinh đã không biết hoặc hắn ta không quan tâm mà lựa chọn cho mình chỗ thích hợp nhất cho cuộc mua bán. Chính hành động ấy đã bóc trần bản chất vô lại của một tên buôn người. Trái ngược với sự hỗn hào, vô học của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều mang tâm trạng đau đớn, bất an, mỗi bước đi lệ rơi mấy hàng “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”.

“Ngại ngùng rợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày

Mối càng vén tóc bắt tay

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”

Trước cuộc sống đầy bất an phía trước, Thúy Kiều mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, đây cũng là nét tâm lí thông thường của con người khi đứng trước những biến cố. Trong khi mụ mối cố gắng chào mồi bằng những lời ngon ngọt thì Thúy Kiều trong vị thế của người bị bán thì u buồn “buồn như cúc, điệu gầy như mai”.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 12)

Tiếng đàn xưa đứt ngang dây

Hai trăm năm lại càng say lòng người”.

(Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)

Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”

Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:

"Chung lưng mở một ngôi hàng

Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”

Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì !Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:

“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”

hoặc một Thúy Kiều:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:

“Đắn đo cân sắc, cân tài

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”

Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi. Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo.Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”

Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn

“Cò kè bớt một thêm hai

Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”

Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót:

“Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”

Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.

Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 13)

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh.Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:

Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Khách đến mua Kiều là "người viễn khách" được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách" đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Khách tự giới thiệu mình là "kẻ sĩ” - sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần". Hai chữ "rằng" nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của " viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh",

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".

Đọc “Truyện Kiều" ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách". Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên". Sống ở Lâm Tri "Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề". Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần" mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người "Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa".

Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tụần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi" của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao" của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối.“Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao" là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”.Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau lưng theo một vài thằng con con.

" Vài thằng con con" là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy - tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh:

Trước thầy sau tớ lao xao

Mới được mụ mối "rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

Cái lối “ngồi tót" là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người". Cái cử chỉ “sỗ sàng" là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa" mới có lối "ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay" món hàng thì hắn "cân sắc” rồi “cân tài", hắn “ép", hắn “ thử', hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng

Đắn đo cân sức cân tài,

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu" mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi', nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!" là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán... để khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân" như Tú Bà đã hạ nhục hắn.Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “Truyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn "buôn phấn bán hương" trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này. 

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 14)

Phân tích hình ảnh chị em Thúy Kiều, chúng ta phần nào nhận ra nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn thơ ấy như những nét vẽ điêu luyện, màu sắc tài hoa thì ở đây, trong đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều, nghệ thuật tả người xuất sắc của nhà thơ lại càng được khẳng định. Đoạn thơ có thể chia làm ba phần. Bốn câu đầu cho biết nguyên nhân Kiều phải bán mình. Hai mươi sáu câu kê tiếp miêu tả chân dung của Giám Sinh. Bốn câu cuối phơi bày bản chất của loại người tin vào sức mạnh của đồng tiền. Muốn hiểu hết bản chất của Mã Giám Sinh, chúng ta cần nhớ lại phần một của Truyện Kiều. Gặp nhau vào buổi chiều tiết thanh minh, thời gian sau đó Thúy Kiều và Kim Trọng tìm cách gặp gỡ rồi hai người đã vượt khỏi vòng lễ giáo mà đính ước, thề nguyền với nhau. Cuộc tình của đôi bạn trẻ càng lúc càng thêm mặn nồng thì tai biến lại xảy ra: Kim Trọng phải về quê hộ táng chú, còn gia đình Thúy Kiều bị thằng bán tơ vu oan khiến cha và em trai của Kiều bị bọn sai nha bắt bơ, tra khảo tàn bạo. Muốn thoát khỏi oan khiên đó, gia đình Kiều phải có ba trăm lạng bạc. Phải làm sao đây, với Kiều. Bên hiếu, bên tình Kiều chỉ có quyền chọn một. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo trước mắt, Kiều đành phải phụ tình. Xã hội phong kiến ví thân phận của người phụ nữ như “hạt mưa”. Ca dao xưa có câu “Thân em như hạt mưa rA - Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”. Đây là thân phụ thuộc, thụ động. Đã thế lại còn gặp cảnh ngặt nghèo nên phải quyết định:

Liều đem tấc cỏ quyết đền hạ xuân

Ngày trước, Manh Giao đợi Đương viết: “Thủy ngôn thốn thào tâm. - Báo đáp tam xuân huy” thì ngày nay Nguyễn Du lại mượn ý của hai câu thơ đó đặt vào suy nghĩ, quyết định của Kiều. Không gượng ép một chút nào tuy là nữ nhi nhưng Kiều lại là người hay chữ. Cha mẹ nuôi con khôn lớn thì con phải báo đền. Kiều hay chữ tất hiểu đạo lí của người xưa, và nàng đã hành động, nói rõ lòng mình với băng nhân, với người mối. Quyết định của Kiều đã làm cho xa gần xôn xao bàn tán. Kiều có người dạm hỏi, chàng Kim chẳng hạn, cũng là lẽ thương. Nhưng ở đây, Kiều tự gả bán mình nên chuyện cưới xin đã khác đi, trở thành chuyện khác thương. Vấn đề là ở cái “gút" đầu tiên ấy.

Và “tin sương đồn đại” ấy lọt vào tai Mã Giám Sinh, người chung lưng với Tú Bà mở thanh lâu ở Lâm Tri. Mã Giám Sinh tức tốc tìm đến. Chuyện mua bán càng lúc càng lộ rõ, càng lúc càng hoán đổi chuyện cưới xin. Cũng cần biết nghĩa của tên của con người ấy mới thấy hết sự khéo léo của Nguyễn Du trọng đoạn thơ này. Chàng ta người họ Mã, còn Giám Sinh, theo Từ điển Truyện Kiều của cụ Đào Duy Anh thì có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là học trò học trường Quốc Tử Giám; Nghĩa thứ hai là người quyên lúa cho quan vào thời nhà Minh. Truyện Kiều ghi sự việc xảy ra vào năm Gia Tĩnh triều Minh, lại thêm tuổi tác của chàng trai họ Mã thì có thể hắn ta là tay chuyên đi quyên lúa chứ chẳng thể là học trò, vì học trò khó có thể trở thành kẻ khai thác thanh lâu, dù hắn ta có máu kinh doanh và tính lình dâm dàng. Một kê chí biết có quyên lúa cho quan mđi có cách chưng diện, cử chi' mà người có chút học thức không thể chọn... Hãy nhìn vẻ bên ngoài của hắn qua nghệ thuật đặc tả của Nguyễn Du:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Hắn đứng tuổi, đã ngoài 40 rồi! Các định ngữ “nhẵn nhụi, bảnh bao" ở câu thư thứ hai chứng tỏ hắn đã cố tình chuẩn bị, trau chuốt, chưng diện để “lòe” Kiều; để ngầm bảo cho Kiều biết hắn ta có của. Chưa hết đâu, hắn còn chuẩn bị cả cách đi “vấn danh ” theo cách của hắn:

Trước thầy, sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Với những cử chí bên ngoài như thế, nhà thơ đã lột trần bộ mặt khoe của, bất lịch sự của con người này. Hắn nhanh nhảu, hăm hở, và tưới rói trong lúc Kiều thì:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dín gió, e sương
Ngừng hoa hóng thẹn, trông gương mặt dày.

Quả là hai hình ảnh đối lập gần như tuyệt đối. Thúy Kiều buồn não ruột, hổ thẹn khôn lường. Nàng buồn cho số phận tình yêu của mình và căm tức về nỗi oan ức mà gia đình nàng phải gánh chịu. Công lí ở công đường nằm về phía những ai có lắm bạc lắm vàng. Kiều chỉ còn biết khóc. Nàng ngại đối mặt với bất cứ ai, bất kì thứ gì. Càng suy nghĩ, Kiều càng thẹn với lòng, càng thây mình là kẻ mặt chai mày đá chẳng biết hổ thẹn là gì! Đời riêng của mỗi người có ba cột mốc quan trọng: lúc chào đời thì “mẹ tròn con vuông", lúc thành vợ - chồng thì “trăm năm hạnh phúc", lúc lừ giã cõi đời thì “mồ yên mả đẹp", ai cũng mong ước được như thế, chúc người thân của mình được như thế. Kiều, lấy chồng, không ở trong ý nghĩa ấy. Giọt lệ của nàng là giọt lệ u buồn, uất hận. Nếu là lễ “vấn danh” thì làm gì có chuyện “vén tóc, bắt tay", làm gì có cảnh:

Đắn đo cân sắc, cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Cảnh trên là cảnh của kẻ đi mua cân nhắc để khỏi thiệt thòi; là cảnh của kẻ sành ăn chơi ở chốn lầu xanh, quán rượu. Chuyện mua bán càng lộ rõ hơn ở những câu đối đáp giữa chàng họ Mã với mụ mối, tuyệt nhiên không thấy nhà thơ đặt sự hiện diện của vương bà đúng theo nghĩa

Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Vì Thúy Kiều như viên ngọc quý ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Hoa. Và Mã Giám Sinh “mua" chứ nào phải đi hỏi vợ! Mua mà có “vấn danh", có “sính nghi”, đồ dần cưới thì quả là lạ đời thật! Rồi lại còn “cò kè bớt một thêm hai”, và “...ngã giá vàng ngoài bốn trăm” nữa thì lễ vấn danh đã trơ thành cảnh mua bán một con người. Nhà thư đã dùng bút pháp hiện thực, cách diễn đạt lấp lửng nửa theo lễ giáo nửa của chợ người để phơi bày bản chất dối trá của nhân vật họ Mã. Dối trá, đểu cáng... vẫn còn thiếu. Đầy đủ hơn là phải thêm vào con người ấy thói xem trọng sức mạnh của đồng tiền:

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong

Nhưng ý nghĩa cưa đoạn thơ không dừng lại ở đó, với một chuỗi nhân vật phản diện như thằng bán tơ, bọn sai nha..., đến mụ băng nhân, bọn tôi tớ, và chàng họ Mã thì đoạn thơ mang tính tố cáo không chí một con người mà cả xã hội. Vào thời buổi ấy, đạo đức của chế độ phong kiến dù có phần hạn chế nhưng vẫn có những nét đẹp truyền thống đã bị lung lay tận gốc. Đồng tiền đã trở thành thước đo phẩm giá của con người, trở thành phương tiện có sức mạnh vạn năng để những kẻ lưu manh, lừa đảo kết hợp với kẻ có quyền hành sâu dân mọt nước phá hoại cuộc sống của dân lành. Nếu cán cân công lí thời ấy công bằng thì nào có chuyện:

Tính bài lót đó luồn dây
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Khiến Kiều phải dứt tình với Kim Trọng, quyết định sự lòng ngỏ với băng nhân mở đầu cho mươi lăm năm truân chuyên, lưu lạc. Đạo đức suy đồi của chế độ phong kiến đã khiến đời Kiều chịu cảnh “Trời tình mờ mịt, hiển hận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đưa di, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch" (Chu Mạnh Trinh).

Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh

 Nhưng hình ảnh như lời trong truyện không quê một chút nào, cũng không phải chỉ để mua vui. Bao thế hệ đọc Truyện Kiều vẫn suy nghĩ và nhận ra đoạn thơ trên vẽ lại bức tranh sinh động của chế độ phong kiến suy tàn. Bởi vậy, đoạn thơ mang giá trị tố cáo sự xuống cấp của đạo đức trong một xã hội đã dần đến nỗi khổ đau oan ức cho biết bao người vô tội. Thế là đoạn thơ lại trỏ thành lời cảnh cáo cho bất kì ai muốn sống đẹp. Nguyễn Du đúng là bậc tài hoa thánh thiện!

Cảm nhận về đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (mẫu 15)

Mở đầu tác phẩm Truyện Kiều, tác giả Nguyễn Du có viết: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Truyện Kiều viết về nhân vật chính Thúy Kiều, nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng sống trong xã hội đen tối bị chi phối bởi thế lực của đồng tiền đã gây nên số phận đầy bi kịch cho nàng. Qua tác phẩm, Nguyễn Du thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nàng Kiều cũng như thân phận người phụ nữ nói chung trong xã hội phong kiến. Có thể nói, bước ngoặt đau đớn đã thay đổi cuộc Thúy Kiều từ một tiểu thư khuê các sang cuộc sống tủi nhục của người kĩ nữ, đó chính là khi Kiều quyết định bán mình cứu cha. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều miêu tả cảnh mua bán đầy xót xa ấy.

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng huyện Lâm Thanh cũng gần”

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã nói về việc mụ mối dẫn dắt một người viễn khách đến hỏi Thúy Kiều về làm vợ, tuy hình thức là hỏi vợ nhưng thực chất đây lại là cuộc mua bán người vô nhân tính. Người được mụ mối dẫn dắt là Mã Giám Sinh, quê ở huyện Lâm Thanh, nghe lời giới thiệu của hắn, ấn tượng ban đầu của người đọc đó chính là một người thư sinh trường Quốc Tử Giám. Cách giới thiệu rõ ràng đến mức sành sỏi lại khiến ta nghi ngờ về nhân vật này.

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng dẫn lối đưa vào vấn danh”

Trong lời giới thiệu của Mã Giám Sinh đã có sự chuẩn bị nên ta chỉ có thể nghi hoặc mà chưa thể đưa ra kết luận về nhân vật này. Nhưng trong cách miêu tả của Nguyễn Du ta lại có những cảm nhận vô cùng rõ nét. Trước hết, Mã Giám Sinh đã trạc tuổi tứ tuần, vào tuổi này người ta thường đã yên bề gia thất nhưng bây giờ hắn ta mới đi hỏi vợ.Với tuổi tác đã không còn trẻ nhưng hắn ta lại chải chuốt cầu kì, ăn mặc đỏm dáng đến mức lố lăng, kệch cỡm “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Cảnh tượng chủ- tớ lao xao như cái chợ cũng khiến ta đặt nhiều nghi vấn cùng thiện cảm không tốt về nhân vật này.

“ Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Không chỉ tuổi tác, cách ăn mặc, cư xử với những người tôi tớ khiến ta nghi ngờ Mã Giám Sinh là còn người giả dối thì đến những câu thơ này ta có thể khẳng định hắn ta không chỉ giả dối mà còn là một kẻ vô học, không phép tắc tự đặt mình vào vị thế của người làm chủ cuộc mua bán nên hắn ta không coi ai ra gì “Ngồi tót sỗ sàng”. Vị trí của những bậc phụ mẫu mà hắn ta không hề suy nghĩ ngồi vào, cho thấy hắn ta là người vô học. Tâm trạng của nàng Kiều thì đau đớn, u sầu khiến mỗi bước đi những giọt lệ ngọc lại ướt đẫm khóe mắt.

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ

Mặn nồng một vẻ một ưa

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”

Đến đây,bản chất của tên buôn người được bộc lộ không thể rõ ràng hơn. Hắn bắt Thúy Kiều thể hiện hết tài năng làm thơ, đàn hát “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, sau khi có vẻ hài lòng với tài sắc của nàng Kiều hắn ta mới quyết định ra giá, kì kèo thêm bớt về giá cả. Việc hỏi vợ của Mã Giám Sinh đã chính thức trở thành cuộc mua bán của những người dân buôn lọc lõi, sành đời. Thúy Kiều không còn là đối tượng hỏi vợ mà đã trở thành một thứ hàng hóa đầy xót xa, đau đớn. 

Bài viết liên quan

215 lượt xem