Phân tích khổ 3,4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (22 mẫu) mới nhất 2023

Phân tích khổ 3,4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 9 Cánh diều gồm 22 bài văn mẫu 2023 mới, hay nhất giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.
346 lượt xem


Phân tích khổ 3,4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn 9

Dàn ý Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính 

1. Mở bài

·       Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.

·       Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật - một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh

·       Bài thơ với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.

2. Thân bài

Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:

·       Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

·       Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu.

- 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:

+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”

⇒ Thái độ lạc quan

+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh

⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng

3. Kết bài

·       Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc…

Top 6 Phân tích hình tượng những chiếc xe không kính trong "Bài thơ về tiểu  đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật - Toplist.vn

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 1)

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, nhà thơ với những hình ảnh khác nhau về người lính. Và trong tác phẩm " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên một hình ảnh rất gần gũi và gắn bó với người lính, đó chinh là những chiếc xe không kính.

Ở đây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã tạo nên hình ảnh rất đặc biệt về chiếc xe không kính trần trụi, dị dạng và nó gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Qua những sự thiếu thốn đó, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự ác liệt của chiến tranh.

Đối với người chiến sĩ lái xe chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác bất ngờ khi lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng đáng yêu qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để khôi hài nữa chứ.

Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục đích, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Không có kính, ừ thì ướt áo
..............
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng, bất chấp tất cả khó khăn.

Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi!

Với chất liệu hiện thực độc đáo, chỉ qua hai khổ thơ ba và bốn, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 2)

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các anh vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn:

Không có kính, ừ thì có bụi
...........
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hi vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 3)

Top 6 Phân tích hình tượng những chiếc xe không kính trong "Bài thơ về tiểu  đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật - Toplist.vnKhông có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng.

Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.

Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.

Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 4)

Khổ ba và khổ bốn bài thơ Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tinh thần lạc quan, dũng cảm, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm. Thiên nhiên còn là sự khốc liệt của bụi, gió, mưa nhưng với thái độ ngang tàn thách thức, bất chấp mọi gian khổ, khó khăn với tinh thần quả cảm quả, người chiến sĩ lái xe buông những tiếng chắc gọn “Không có… ừ thì” như 1 lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi biến những khó khăn thành điều thú vị, với ý nghĩ táo tợn “Chưa cần…”.

Giọng ngang tàn, bất chấp thể hiện rõ trong cấu trúc lặp: “Không có kính ừ thì…chưa cần” và trong các chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc“, “cười ha ha” hay “lái trăm cây số nữa” giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có thể gây bao khó khăn. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực: “bụi phun”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, kiên cường.

Họ chấp nhận gian khổ như 1 điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Cái tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ 2 câu đầu nói về hiện thực gian khổ phải chấp nhận thì 2 câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiên tranh ác liệt. Câu thơ: “phì phèo châm điếu thuốc” và “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” khiến ý thơ rộn rã, sôi động, lạc quan; những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Câu thơ 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản, chấp nhận khó khăn như câu chuyện nhỏ của họ.

Với 8 câu thơ, nhà thơ đã cho ta thấy được những khó khăn gian khổ mà người lính phải đối mặt khi xe không có kính, giọng thơ ngang tàn, giàu khẩu ngữ, ngôn ngữ tự nhiên và giọng thơ bình thản đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, hóm hỉnh, trẻ trung của người lính!

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 5)

Chiến tranh đã qua đi nhưng những tác phẩm thời gian vẫn còn sống mãi với thời gian. Một trong những tác phẩm ấy đó là "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của tác giả Phạm Tiến Duật - một nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người lái xe Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mỹ. Điều này được thể hiện rõ qua 2 khổ thơ sau:

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.

Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Chuyện vặt ấy mà, có hề gì! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy: "Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hy vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính để làm sáng tỏ ý kiến Phạm Tiến  Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo...

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 6)

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ để giải phóng quê hương, giành độc lập, tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật trung tâm, hội tụ những gì cao đẹp nhất.
Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận cho các nhà thơ, nhà văn. Là một nhà thơ quân đội, phục vụ trong đơn vị vận tải trên con đường Trường Sơn máu lửa, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, độc đáo là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Trong đó ba khổ thơ sau thật nổi bật:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi...
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lải.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha...

Trên con đường Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường để tiếp viện. Những chiếc xe và những chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách thật độc đáo.

Nguồn cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe không có kính” và càng bất ngờ, gây ấn tượng mạnh mẽ vì không chỉ một chiếc xe thôi mà là cả một “tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ đầu tiên.

"Không có kính không phải vì xe không có kính"

Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như một lời nói của người chiến sĩ kể lể chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là chuyện bình thường, không có gì đáng nói, đáng quan tâm.

Chi tiết tả thực “không có kính” mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ. Nếu vế đầu của câu thơ có tính chất phủ định thì vế sau của câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “không phải vì xe không có kính”. À, thì ra trước kia chiếc xe vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đấy chứ.

Vậy tại sao lại có sự không bình thường đó, vì sao cả một “tiểu đội xe không kính”? Nhà thơ vào tư thế, vị trí của người chiến sĩ lái xe để trả lời:

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Thì ra lí do, nguyên nhân cũng tại chiến tranh mà ra cả. Điệp ngữ “bom” kết hợp với các động từ “giật, rung” đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc. “Mưa bom, bão đạn” của chúng dội xuống đường Trường Sơn thật dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom, đạn trúng vào khiến “kính vỡ đi rồi”. Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Từ “Ung dung” đặt trong phép đảo ngữ diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ đó xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng. Từ chiếc xe không kính người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài.

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm. hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên, cuộc sống và sự quyết tâm, vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi an toàn, mau đến đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu với bao hiểm nguy, gian khổ. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!

Ở khổ 2, chiếc xe không còn bộ phận nào che chắn nên giờ đây người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài khi chiếc xe lao đi.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa” mắt đắng mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Cơn gió dường như cũng chẳng vô tình, gió đã vào “xoa” mắt đắng để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi mắt bởi những ngày đêm thức trắng để lái xe không ngừng nghỉ. Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ hơn khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Sự liên tưởng thật đẹp và độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường đã chạy ngược về phía người lái. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái xe, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn dạt dào tình yêu Tổ quốc quê hương mà cụ thể là con đường thân thuộc gần gũi, con đường hứng chịu bao đạn bom, máu lửa. Chiếc xe vẫn lao nhanh, tiến lên vì người lính biết rõ mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt động vĩ ai? Để làm gì?

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Cuộc chiến đấu thật lắm hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn, bay bổng khi anh quan sát từ chiếc xe không kính để thấy “sao trời, cánh chim”.... Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận ”... như sa, như ùa vào buồng lái”. Nếu điệp ngữ “nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật tinh tế và lạc quan. Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một nhà thơ đã từng viết:

Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.

Còn ở khổ 3, người chiến sĩ lái xe chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác bất ngờ khi lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng ngộ nghĩnh qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để khôi hài nữa chứ. Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục đích, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính thật là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về...”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ của các chi tiết, hình ảnh và sự uyển chuyển, linh hoạt của nhạc điệu... đã khắc họa đậm nét hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối với mỗi người chúng ta ngày nay. Cảm ơn nhà thơ đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về những người chiến sĩ của một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình để chiến đấu, hi sinh cho dân tộc, đất nước. Phải sống sao cho xứng đáng để không hổ thẹn với cha anh, không phụ lòng của thế hệ cha anh, đó là tâm niệm của chúng ta khi thưởng thức bài thơ độc đáo này.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 7)

Phạm Tiến Duật là một gương mặt tiêu biểu trong lớp những nhà thơ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của Phạm Tiến Duật thường viết về những người lính, những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Một trong số đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ đã khắc hoạ thành công hình ảnh của những người lính lái xe Trường Sơn năm nào với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch, đặc biệt là hai khổ thơ thứ ba và thứ tư.

Phạm Tiến Duật là một người lính trên tuyến đường Trường Sơn, vậy nên ông am hiểu về những người lính lái xe trong chiến tranh, am hiểu về đời sống của họ. Những câu thơ đậm chất hiện thực đã tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về những người lính lái xe cùng những chiếc xe “không kính” của họ.

Ở hai khổ thơ thứ 3 và thứ 4, đầu tiên ta thấy được là những khó khăn vất vả mà người lính phải trải qua khi lái xe không kính. Đó là “bụi” đất mù mịt trên đường hành quân và những cơn mưa rừng chợt đến chợt đi dữ dội. Nếu như ở hai khổ đầu, những khó khăn trong sự nghiệp lái xe không kính của họ chỉ được diễn tả rất mơ hồ, không rõ thì ở những dòng thơ này, những thử thách, khó khăn đã ập tới rất cụ thể:

“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”

Và:

“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”

Để có thể hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính phải trải qua hết thảy những khó khăn, gian khổ. Khi là những chặng đường với bụi trắng xoá, làm mái đầu xanh giờ đây trở nên “trắng như người già”, rồi thì những cơn mưa rừng bất chợt ào tới, xối xả rót xuống những chiếc xe không kính… Nhà thơ đã bắt đầu hai khổ thơ bằng điệp từ “không có kính” để nhấn mạnh sự thiếu thốn, sự dị thường của những chiếc xe băng qua Trường Sơn. Từ đó, ta có thể thấy được những gian khổ vô cùng mà những người lính gặp phải khi tiến về miền Nam. Những chiếc xe chở đạn dược vũ khí mất đi bộ phận che chắn khiến cho người và xe đi trong bụi trong gió trong mưa. Điệp từ “bụi” và “mưa” lặp lại hai lần trong hai câu thơ liên tiếp cùng các động từ mạnh như “phun”, “tuôn”, “xối” cho ta thấy được sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên trên đường hành quân mà những người lính lái xe phải đối mặt trên chặng đường tiến về miền Nam. Thêm vào đó, Phạm Tiến Duật còn có những so sánh liên tưởng vô cùng độc đáo để diễn tả những khó khăn mà người lính lái xe gặp phải, nào là những cơn gió bụi thổi áo vào xe qua khung cửa kính vỡ, phủ đầy lên tóc, lên gương mặt lấm lem của những người lính, thế nhưng trong mắt nhà thơ, họ như họ trở thành những “người già” đầy đáng yêu và tinh nghịch. Hay những cơn mưa rừng vội vã ào đến bất chợt tuôn xối xả qua những khung cửa vỡ khiến những người lính ướt đẫm thân mình. Chặng đường tiến về miền Nam quả thực đầy những gian khổ và khó khăn! Không chỉ có bom đạn của quân giặc mà còn có cả những thiếu thốn vật chất thiết yếu và cả những gian lao, khắc nghiệt của thiên nhiên nữa.

Thế nhưng vượt lên trên tất cả những gian lao ấy, những khó khăn thử thách ấy là tình thần lạc quan, bất chấp gian khó của những người lính lái xe Trường Sơn. Điệp từ “ừ thì” đã thể hiện tinh thần bất chấp, sẵn sàng chịu đựng cùng thái độ lạc quan cứng cỏi của những người lính lái xe. Dường như với họ, những khó khăn đó chẳng có chút ảnh hưởng gì tới họ, tất cả chỉ là những “chuyện nhỏ”. Hoàn cảnh của những người lính được miêu tả hết sức chân thực, sống động, những người chiến sĩ đã biến những điều “bất thường” trở thành những điều bình thường đơn giản. Họ đã vượt qua tất cả bằng tinh thần lạc quan, hiên ngang, ý chí trách nhiệm vững vàng. Những người lính đối mặt với khó khăn bằng tiếng cười đùa đầy sảng khoái:

“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Nhịp thơ 3/2/3, 4/3 chứa đầy niềm vui phơi phới của những chàng thanh niên trẻ lên đường cứu quốc. Đọc câu thơ nhưng người ta có thể thấy được cả tiếng cười sảng khoái, hết mình của những người lính lái xe Trường Sơn. Thêm vào đó, ở câu thơ cuối khổ thơ thứ 4, ta có thể thấy một câu thơ 7 tiếng mà có tới 6 tiếng thanh bằng “mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi” gợi lên cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, rất ung dung, lạc quan. Những câu thơ của chàng lính trẻ Phạm Tiến Duật chứa đựng sự sôi nổi, tinh nghịch của những người chiến sĩ, ta như thấy họ đang đùa giỡn, đang vui vẻ cùng nhau trong đoạn đường lái xe gian khổ ấy. Tất cả những gian khổ, khó khăn đều được xoá nhoà bằng nụ cười sảng khoái, trẻ trung, ngang tàng trên môi những người chiến sĩ. Chính Phạm Tiến Duật cũng là một người lính lái xe, vậy nên có lẽ ông hiểu được những hiện thực gần gũi của đời sống người lính và đưa vào thơ một cách đầy táo bạo. Những vần thơ của ông không hề chau chuốt nhưng lại làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính trẻ hồn nhiên, lạc quan, rất yêu đời, sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho Tổ quốc và đối diện với khó khăn bằng một tinh thần rất đỗi ngang tàng, dũng cảm.

Hai khổ thơ 3 và 4 trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” đã cho chúng ta thấy được những gian khổ, thiếu thốn mà người lính lái xe đã phải đối mặt trong chặng đường tiến về miền Nam. Bằng giọng thơ trẻ trung, sôi nổi, có chút ngang tàng, Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên tinh thần lạc quan của những người lính trẻ năm nào. Các biện pháp như điệp từ cùng sự so sánh liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ thơ bình dị, quen thuộc đã xây dựng nên hình tượng những người chiến sĩ Trường Sơn rất thành công.

“Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, đặc biệt là khổ 3 và 4 đã cho chúng ta thấy được một hình ảnh rất độc đáo – những chiếc xe không kính. Thông qua đó, tác giả đã làm nổi bật hình tượng những người lính lái xe trẻ tuổi với tư thế hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, một lòng hướng về miền Nam phía trước. Họ là những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 8)

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các anh vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn:

Không có kính, ừ thì có bụi

...........

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Nếu như hai khổ đầu  bài  thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động,  một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hy vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ. 

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 9)

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, nhà thơ với những hình ảnh khác nhau về người lính. Và trong tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

     Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên một hình ảnh rất gần gũi và gắn bó với người lính, đó chinh là những chiếc xe không kính.

Ở đây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã tạo nên hình ảnh rất đặc biệt về chiếc xe không kính trần trụi, dị dạng và nó gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Qua những sự thiếu thốn đó, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự ác liệt của chiến tranh.

Đối với người chiến sĩ lái xe chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác bất ngờ khi lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã

Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng đáng yêu qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để khôi hài nữa chứ.

Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục đích, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Không có kính, ừ thì ướt áo

..............

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng, bất chấp tất cả khó khăn.

Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi!

Với chất liệu hiện thực độc đáo, chỉ qua hai khổ thơ ba và bốn, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 10)

Chiến tranh đã qua đi nhưng mà những tác phẩm thời kì vẫn còn sống mãi với thời kì. 1 trong những tác phẩm đó đấy là “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của tác giả Phạm Tiến Duật – 1 thi sĩ điển hình, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người tài xế Trường Sơn thời gian kháng chiến chống Mỹ. Điều này được trình bày rõ qua 2 khổ thơ sau:

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phà châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa dừng gió lùa khô mau thôi

Bài thơ có mặt trên thị trường trong thời gian kháng chiến chống Mĩ đã trình bày rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am tường đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả chân nên đã gây ấn tượng thâm thúy đến người đọc. Trong bài thơ tác giả đã hình thành hình ảnh đặc trưng là những chiếc xe ko kính, hình ảnh lạ mắt đấy đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng thâm thúy.

Giả dụ 2 khổ đầu bài thơ mang đến cho ta những cảm giác về những gian nan thách thức thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì tới đây, thách thức, gian nan ập đến chi tiết, trực tiếp. Ấy là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa biểu trưng cho gian nan thách thức ở đời). Trên trục đường tiếp viện cho miền Nam cật ruột, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian nan. Chuyện vặt đó nhưng, có hề gì! Nhịp điệu câu thơ, đặc trưng là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đấy. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhận ra mái đầu bụi trắng, khuôn mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa cute này là 1 khả năng đấu tranh rất vững vàng của họ, bởi ko vững vàng thì chẳng thể đùa vui tương tự giữa cái con đường Trường Sơn thảm khốc này.

Trước thách thức mới, người chiến sĩ vẫn ko nao núng. Các anh càng tĩnh tâm, can đảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết hà khắc, dữ dội nhưng mà đối với họ tất cả chỉ “chuyện bé”, chẳng đáng nhọc lòng, chúng lại như mang đến thú vui cho người lính.Chấp nhận thực tiễn, câu thơ vẫn vút lên chứa chan niềm sáng sủa sôi nổi: “ko có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như 1 thử thách, 1 bằng lòng gian nan đầy chủ động, 1 thái độ cứng cỏi. Chừng như gian nan nguy hiểm của chiến tranh chưa làm mảy may tác động tới ý thức của họ, ngược lại họ xem đây là 1 dịp để thử sức mình như người xưa xem thiến nạn gian nan để chứng tỏ chí làm trai. Hoàn cảnh của các anh được mô tả rất chân thật nhưng mà người chiến sĩ đã tầm thường hoá cái ko tầm thường đấy và vượt lên cùng tất cả sự phấn đấu, cùng ý thức bổn phận rất cao. Họ bằng lòng gian nan như 1 điều thế tất, gian nan ko mảy may tác động tới ý thức của họ. Hình ảnh của họ mang 1 vẻ đẹp bền chí.

Và sau thái độ đó là những tiếng cười đùa, những lời hẹn hứa, cố gắng vượt gian nan nguy hiểm:”Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn hợp lý, ăn nhịp theo nhịp rung hợp lý của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có tới 6 thanh bằng “mưa dừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhàng, thung dung rất sáng sủa, rất thanh thản. Ấy là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phà châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn ràng, nhộn nhịp như sự nhộn nhịp lập cập của đoàn xe trên đường đi đến. Những vần thơ ít chất thơ nhưng mà càng đọc thì lại càng thấy ham thích, giọng thơ có chút gì tinh nghịch, quân lính. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có nhẽ với những 5 tháng sống trên con đường Trường Sơn, là 1 người lính đích thực đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – 1 hiện thực bề bộn, 1 hiện thực thô tháp, trần truồng, chẳng hề gọt giũa, gọt rũa. Đó phải chăng chính là nét lạ mắt trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ thân cận với lời nói hằng ngày đó càng làm nổi trội lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Ấy cũng là 1 nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái không lo nghĩ, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng đội”, nụ cười hồn nhiên đó rất hi hữu gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người xoành xoạch thắng lợi và chứa chan niềm tin.điều đấy đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được 1 thái độ can đảm tới ngang tàng và sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình 1 trái tim yêu nước can tràng!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn thân cận với tự nhiên. Trong tâm hồn họ chan chứa kì vọng. Không dễ gì có được thái độ sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình 1 trái tim yêu nước của tuổi xanh Việt Nam thời chống Mĩ. Phcửa ải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tỉnh và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu mến và kiêu hãnh về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 11)

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, thi sĩ với những hình ảnh không giống nhau về người lính. Và trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe ko kính” ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, ý thức can đảm, bất chấp gian nan nguy nan và ý chí đấu tranh phê duyệt hình ảnh của những chiếc xe ko kính.

Bài thơ có mặt trên thị trường trong thời gian kháng chiến chống Mĩ đã trình bày rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am tường đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả chân nên đã gây ấn tượng thâm thúy đến người đọc. Trong bài thơ tác giả đã hình thành hình ảnh đặc trưng là những chiếc xe ko kính, hình ảnh lạ mắt đấy đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng thâm thúy.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên 1 hình ảnh rất thân cận và gắn bó với người lính, đấy chinh là những chiếc xe ko kính.

Ở đây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã hình thành hình ảnh rất đặc trưng về chiếc xe ko kính trần truồng, kì quái và nó gây ấn tượng thâm thúy đến người đọc. Qua những sự thiếu thốn đấy, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự thảm khốc của chiến tranh.

Đối với người chiến sĩ lái xe chiếc xe “ko kính” mang đến những cảm giác bất thần lúc lao đi trên đường. Nhưng đấy cũng chính là nguyên do gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ mở đầu bằng cấu trúc lặp lại “ko có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ đời, lạ mắt của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn đạt, nhấn mạnh chừng độ gớm ghê tới đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mịt mờ cả ko gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, thi sĩ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi hấp tấp
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đấy qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng cute qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành 1 con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian nan của anh chiến sĩ lái xe được diễn đạt sao nhưng nhẹ nhõm tới thế. Họ ko phàn nàn, than thở nhưng mà lấy chính cái gian nan của mình để hài hước nữa chứ.

Đối lập với thực tiễn gian nan vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phà châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” trình bày sự bằng lòng, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thử thách, bất chấp, xem thường mọi gian nan. Gian khổ này nghe đâu ko ảnh hưởng, làm lay động, ý chí, cố gắng anh. Người chiến sĩ xem đấy là dịp để đoàn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Nguồn cội sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục tiêu, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân thương”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui mừng, sôi nổi trình bày thái độ cố gắng trong nhiệm vụ, thử thách trước gian nan. Lời thơ có chỗ nhẹ nhõm, hợp lý như chiếc xe vẫn đang tiến đến, có chỗ gợi cảm, trong trắng như vang vọng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ can đảm, bền chí, quật cường nhưng cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Không có kính, ừ thì ướt áo
…………..
Mưa dừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc ko có kính … ừ thì chưa cần trình bày tính cách ngang tàng, bất chấp tất cả gian nan.

Không có kính che mưa thì đương nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng mà các anh cũng chớ thây, cứ để vậy nhưng lái tiếp bởi mưa dừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế đó, hiên ngang nhưng sao yêu đời quá đi thôi!

Với chất liệu hiện thực lạ mắt, chỉ qua 2 khổ thơ 3 và 4, bài thơ thể hiện ảnh ảnh hào hùng của chiếc xe ko kính, qua đấy khắc họa nổi trội hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời gian kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 12)

Hình ảnh người lính qua Bài thơ về tiểu đội xe ko kính Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào trận đấu đấu với tất cả thuộc tính chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất can đảm và mang những nét thanh thản, vui mừng. Lái xe trên trục đường Trường Sơn khói lửa, trục đường đó trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng mà các anh vẫn chứa chan nghị lực bất chấp gian nan, nguy hiểm để chấm dứt nhiệm vụ. Xe “ko kính, ko mui, ko đèn” nhưng tâm thế vẫn thung dung thanh thản, gian nan nhiều nhưng mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, nghịch ngợm, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thử thách với mọi gian nan:

Không có kính, ừ thì có bụi
………..
Mưa dừng, gió lùa khô mau thôi

Giả dụ 2 khổ đầu bài thơ mang đến cho ta những cảm giác về những gian nan thách thức thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì tới đây, thách thức, gian nan ập đến chi tiết, trực tiếp. Ấy là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa biểu trưng cho gian nan thách thức ở đời). Trên trục đường tiếp viện cho miền Nam cật ruột, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian nan. Chuyện vặt đó nhưng, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc trưng là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đấy. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhận ra mái đầu bụi trắng, khuôn mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa cute này là 1 khả năng đấu tranh rất vững vàng của họ, bởi ko vững vàng thì chẳng thể đùa vui tương tự giữa cái con đường Trường Sơn thảm khốc này.

Trước thách thức mới, người chiến sĩ vẫn ko nao núng. Các anh càng tĩnh tâm, can đảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết hà khắc, dữ dội nhưng mà đối với họ tất cả chỉ “chuyện bé”, chẳng đáng nhọc lòng, chúng lại như mang đến thú vui cho người lính.Chấp nhận thực tiễn, câu thơ vẫn vút lên chứa chan niềm sáng sủa sôi nổi: “ko có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như 1 thử thách, 1 bằng lòng gian nan đầy chủ động, 1 thái độ cứng cỏi. Chừng như gian nan nguy hiểm của chiến tranh chưa làm mảy may tác động tới ý thức của họ, ngược lại họ xem đây là 1 dịp để thử sức mình như người xưa xem thiến nạn gian nan để chứng tỏ chí làm trai. Hoàn cảnh của các anh được mô tả rất chân thật nhưng mà người chiến sĩ đã tầm thường hoá cái ko tầm thường đấy và vượt lên cùng tất cả sự phấn đấu, cùng ý thức bổn phận rất cao. Họ bằng lòng gian nan như 1 điều thế tất, gian nan ko mảy may tác động tới ý thức của họ. Hình ảnh của họ mang 1 vẻ đẹp bền chí.

Và sau thái độ đó là những tiếng cười đùa, những lời hẹn hứa, cố gắng vượt gian nan nguy hiểm:”Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn hợp lý, ăn nhịp theo nhịp rung hợp lý của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có tới 6 thanh bằng “mưa dừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhàng, thung dung rất sáng sủa, rất thanh thản. Ấy là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phà châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn ràng, nhộn nhịp như sự nhộn nhịp lập cập của đoàn xe trên đường đi đến. Những vần thơ ít chất thơ nhưng mà càng đọc thì lại càng thấy ham thích, giọng thơ có chút gì tinh nghịch, quân lính. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có nhẽ với những 5 tháng sống trên con đường Trường Sơn, là 1 người lính đích thực đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – 1 hiện thực bề bộn, 1 hiện thực thô tháp, trần truồng, chẳng hề gọt giũa, gọt rũa. Đó phải chăng chính là nét lạ mắt trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ thân cận với lời nói hàng ngày đó càng làm nổi trội lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Ấy cũng là 1 nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái không lo nghĩ, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng đội”, nụ cười hồn nhiên đó rất hi hữu gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo của những con người xoành xoạch thắng lợi và chứa chan niềm tin.điều đấy đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được 1 thái độ can đảm tới ngang tàng và sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình 1 trái tim yêu nước can tràng!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn thân cận với tự nhiên. Trong tâm hồn họ chan chứa hi vọng. Không dễ gì có được thái độ sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình 1 trái tim yêu nước của tuổi xanh Việt Nam thời chống Mĩ. Phcửa ải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tỉnh và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu mến và kiêu hãnh về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 13)

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phà châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa dừng gió lùa khô mau thôi

Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian nan, thách thức nhưng các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra trận mạc. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái đầu xanh của các chàng trai có sự chỉnh sửa đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng mà các anh vẫn rất sáng sủa, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt đầm “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian nan: gió bụi, mưa rừng. Mặc dầu vượt hết gian nan này lại đến gian nan kia nhưng mà người lính vẫn ngang tàng, phất phới sáng sủa: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa dừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính quân nhân cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái gian nan lặt vặt, bởi vậy các anh chẳng phải ân cần. Thiên nhiên có hà khắc, chiến tranh có ác liệt thì cũng ko làm chùn bước, ý chí của người lính cách mệnh.

Và trong trận đấu tranh đầy gian khó, thách thức đó, tình cảm đồng đội, đồng chí lại càng phát triển thành gắn bó và thân cận với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn hữu suốt dọc đường đi đến
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về 1 nơi hội tụ, để kể cho nhau nghe những chặng đường nhưng mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy ý thức kết đoàn, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Ấy cũng chính là ý thức của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian khó để tiến bước đi tới thành công.

Những tình cảm đó đã làm thành sức mạnh, tạo điều kiện cho những người lính phát triển thành mạnh bạo và sáng sủa hơn. Chiến tranh vì vậy cũng bớt ác liệt, bớt u ám hơn.

Không có kính rồi xe ko có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có 1 trái tim.

1 lần, sự ác liệt của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nói đến phê duyệt những cụ thể như xe “ko kính, ko đèn, ko mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có ác liệt tới máy thì ý chí và sự cố gắng vì miền Nam vẫn ko dừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là 1 hình ảnh đẹp. Nó biểu trưng cho lý tưởng thắng lợi, hợp nhất giang san. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm tương trợ cho miền Nam toàn thắng.

Với hình ảnh người chiến sĩ chuyển vận bền chí, dũng mãnh và đầy sáng sủa, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” đã để lại những ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc. Và cái kết tinh hấp dẫn nhất trong bài thơ đó chính là tình đồng đội gắn bó và tình yêu Quốc gia thiêng liêng.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 14)

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ để giải phóng quê hương, giành độc lập, tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã biến thành đối tượng trung tâm, tụ hội những gì cao hấp dẫn nhất.
Những chàng trai đấy đã được quần chúng và toàn cầu bái phục, ái mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã biến thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài vô tận cho các thi sĩ, nhà văn. Là 1 thi sĩ quân đội, chuyên dụng cho trong đơn vị chuyển vận trên trục đường Trường Sơn máu lửa, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận thâm thúy cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên trục đường lịch sử này. Ông đã sáng tác 1 bài thơ hay, lạ mắt là Bài thơ về tiểu đội xe ko kính. Trong đấy 3 khổ thơ sau thật nổi trội:

Không có kính không hề vì xe ko có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy trục đường chạy thẳng vào tim.
Thđó sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lải.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phà châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…

Trên trục đường Trường Sơn huyết mạch và nổi danh với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị chuyển vận vẫn lao nhanh ra trận mạc để chi viện. Những chiếc xe và những chiến sĩ lái xe biến thành không xa lạ, cute. Nhà thơ viết về họ với cá tính thật lạ mắt.

Nguồn cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe ko có kính” và càng bất thần, gây ấn tượng mạnh bạo vì ko chỉ 1 chiếc xe thôi nhưng là cả 1 “tiểu đội xe ko kính”. Hình ảnh những chiếc xe đấy được nhấn mạnh trong câu thơ trước nhất.

“Không có kính không hề vì xe ko có kính”

Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với tiếng nói giản dị, mộc mạc, giống như 1 lời nói của người chiến sĩ kể lể chiếc xe yêu mến nhưng mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là chuyện tầm thường, ko có gì đáng nói, đáng ân cần.

Chi tiết tả chân “ko có kính” mới gây gổ để mắt, bất thần và là 1 thực tiễn có sức khêu gợi mạch thơ. Nếu vế đầu của câu thơ có thuộc tính phủ định thì vế sau của câu thư lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “không hề vì xe ko có kính”. À, té ra trước kia chiếc xe vẫn vẹn nguyên, lành lẽ với các bộ phận ấy chứ.

Vậy vì sao lại có sự ko tầm thường đấy, tại sao cả 1 “tiểu đội xe ko kính”? Nhà thơ vào tư thế, địa điểm của người chiến sĩ lái xe để giải đáp:

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Thì ra lí do, nguyên do cũng tại chiến tranh nhưng ra cả. Điệp ngữ “bom” liên kết với các động từ “giật, rung” đã tái tạo lại ko khí, thuộc tính tàn khốc, gay go của trận đấu đấu giữa ta và giặc, phơi bày và khiếu nại thực chất cường bạo, ngông cuồng của quân giặc. “Mưa bom, bão đạn” của chúng dội xuống đường Trường Sơn thật dữ dội, thảm khốc. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí tiên tiến để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, ý thức đấu tranh của người chiến sĩ. Áp lực của bom đạn lúc nổ, những mảnh bom, đạn trúng vào khiến “kính vỡ đi rồi”. Lời thơ vẫn nhẹ nhõm trình bày sự thản nhiên của người cầm lái. Đối lập với thực tiễn gian nan, hà khắc về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Từ “Ung dung” đặt trong phép đảo ngữ diễn đạt thái độ tự tin, tĩnh tâm, ko 1 chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở lực, gian nan, chớ thây những nguy hiểm, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ đấy xuất hành từ nhân phẩm gan góc, người hùng. Từ chiếc xe ko kính người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài.

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 thật hợp lý. Nó trình bày sự ăn nhịp, cân bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, tĩnh tâm của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. 1 vẻ đẹp xuất hành từ tâm. hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chuyên chú đấy biểu hiện niềm mến thương của anh với tự nhiên, cuộc sống và sự cố gắng, vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó mến thương trục đường Trường Sơn hào hùng, không xa lạ, để dẫn đưa chiếc xe đi an toàn, mau tới đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm sáng sủa, bay bổng, thêm tin cậy vào mai sau. Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào trục đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian nan, thách thức của mình để thêm kiên quyết, hăng hái nhưng chuẩn bị ứng phó, chống chọi với bao nguy hiểm, gian nan. Do đó, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật can đảm, hào hùng biết bao!

Ở khổ 2, chiếc xe ko còn bộ phận nào che chắn nên giờ đây người chiến sĩ đã xúc tiếp trực tiếp với bên ngoài lúc chiếc xe lao đi.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy trục đường chạy thẳng vào tim

Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh ko chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa” mắt đắng nhưng đã nhận ra cơn gió vô hình. Cơn gió nghe đâu cũng chẳng vô tình, gió đã vào “xoa” mắt đắng để làm cắt bớt vị đắng, sự khó chịu nơi mắt bởi những ngày đêm thức trắng để lái xe ko dừng nghỉ. Cảm giác đó càng tăng trưởng mạnh bạo hơn lúc anh “nhận ra trục đường chạy thẳng vào tim”. Sự liên tưởng thật đẹp và lạ mắt lúc chiếc xe lao đến, trục đường đã chạy ngược về phía người lái. Sự tin cậy thích hợp với tấm lòng của người tài xế, đấy là tấm lòng đon đả, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn dạt dào tình yêu Quốc gia quê hương nhưng chi tiết là trục đường không xa lạ thân cận, trục đường hứng chịu bao đạn bom, máu lửa. Chiếc xe vẫn lao nhanh, tiến lên vì người lính biết rõ mục tiêu, lí tưởng công tác cao cả của mình là góp sức, hoạt động vĩ người nào? Để làm gì?

Thđó sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Cuộc đấu tranh thật lắm nguy hiểm, thách thức nhưng mà tâm hồn người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn, bay bổng lúc anh quan sát từ chiếc xe ko kính để thấy “sao trời, cánh chim”…. Có nhẽ, tâm hồn anh phải hoan hỉ, phất phới yêu đời nên mới có được cảm nhận ”… như sa, như ùa vào buồng lái”. Nếu điệp ngữ “nhận ra” diễn đạt thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh tới sự hiện ra bất thần, nhanh lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn đó thật tinh tế và sáng sủa. 1 ánh sao, 1 cánh chim lạc đàn cũng làm anh để mắt, xao xuyến. Nhịp thơ phát triển thành nhanh gấp, sôi nổi trình bày tâm hồn yêu đời, yêu tự nhiên, sự sáng sủa của người chiến sĩ. Ấy cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Gicửa ải phóng quân thời chống Mĩ. Như 1 thi sĩ đã từng viết:

Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom dã man thét gào
Dù cơ thể tự nhiên mang đầy thương tích.

Còn ở khổ 3, người chiến sĩ lái xe chiếc xe “ko kính” mang đến những cảm giác bất thần lúc lao đi trên đường. Nhưng đấy cũng chính là nguyên do gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ mở đầu bằng cấu trúc lặp lại “ko có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ đời, lạ mắt của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn đạt, nhấn mạnh chừng độ gớm ghê tới đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mịt mờ cả ko gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, thi sĩ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi hấp tấp
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đấy qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng ngộ nghĩnh qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành 1 con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian nan của anh chiến sĩ lái xe được diễn đạt sao nhưng nhẹ nhõm tới thế. Họ ko phàn nàn, than thở nhưng mà lấy chính cái gian nan của mình để hài hước nữa chứ. Đối lập với thực tiễn gian nan vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phà châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” trình bày sự bằng lòng, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thử thách, bất chấp, xem thường mọi gian nan. Gian khổ này nghe đâu ko ảnh hưởng, làm lay động, ý chí, cố gắng anh. Người chiến sĩ xem đấy là dịp để đoàn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Nguồn cội sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục tiêu, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân thương”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui mừng, sôi nổi trình bày thái độ cố gắng trong nhiệm vụ, thử thách trước gian nan. Lời thơ có chỗ nhẹ nhõm, hợp lý như chiếc xe vẫn đang tiến đến, có chỗ gợi cảm, trong trắng như vang vọng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ can đảm, bền chí, quật cường nhưng cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Bài thơ về tiểu đội xe ko kính thật là 1 bài thơ hay, rực rỡ của Phạm Tiến Duật. Chẳng phải trùng hợp nhưng thi sĩ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về…”. Chất thơ tỏa ra từ thực tiễn trận đấu đấu, từ thú vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự thông minh bất thần của các cụ thể, hình ảnh và sự uyển chuyển, cởi mở của giai điệu… đã khắc họa đậm nét hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần 3 mươi 5, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh bạo đối với mỗi người chúng ta hiện tại. Cảm ơn thi sĩ đã giúp người đọc cảm nhận thâm thúy về những người chiến sĩ của 1 thời gian nan nhưng hào hùng, đã quên mình để đấu tranh, hi sinh cho dân tộc, non sông. Phcửa ải sống sao cho xứng đáng để ko hổ hang với cha anh, ko phụ lòng của lứa tuổi cha anh, đấy là tâm niệm của chúng ta lúc thưởng thức bài thơ lạ mắt này.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 15)

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, nhà thơ với những hình ảnh khác nhau về người lính. Và trong tác phẩm “ Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu thông qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên một hình ảnh rất gần gũi và gắn bó với người lính, đó chinh là những chiếc xe không kính.

Ở đây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã tạo nên hình ảnh rất đặc biệt về chiếc xe không kính trần trụi, dị dạng và nó gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Qua những sự thiếu thốn đó, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự ác liệt của chiến tranh.

Đối với người chiến sĩ lái xe chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác bất ngờ khi lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng đáng yêu qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính cái gian khổ của mình để khôi hài nữa chứ.

Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục đích, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi thể hiện thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thách thức trước gian khổ. Lời thơ có chỗ nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như văng vẳng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, bất khuất mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Không có kính, ừ thì ướt áo
…………..
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng, bất chấp tất cả khó khăn.

Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi!

Với chất liệu hiện thực độc đáo, chỉ qua hai khổ thơ ba và bốn, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 16)

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các anh vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn:

Không có kính, ừ thì có bụi
………..
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hi vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 17)

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng.

Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.

Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.

Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 18)

Chiến tranh đã qua đi nhưng những tác phẩm thời kì vẫn còn sống mãi với thời kì. Một trong những tác phẩm đấy đó là “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của tác giả Phạm Tiến Duật – một thi sĩ tiêu biểu, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người tài xế Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mỹ. Điều này được trình bày rõ qua 2 khổ thơ sau:

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trình bày rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am tường đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng thâm thúy tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc trưng là những chiếc xe ko kính, hình ảnh lạ mắt đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng thâm thúy.

Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những trở ngại thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì tới đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian truân thử thách ở đời). Trên tuyến đường tăng viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian truân. Chuyện vặt đấy nhưng mà, có hề gì! Nhịp điệu câu thơ, đặc trưng là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, khuôn mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một khả năng đấu tranh rất vững vàng của họ, bởi ko vững vàng thì ko thể đùa vui tương tự giữa cái tuyến đường Trường Sơn khốc liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn ko nao núng. Các anh càng tĩnh tâm, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại thú vui cho người lính.Chấp nhận thực tiễn, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm sáng sủa sôi nổi: “ko có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thử thách, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Hình như gian truân nguy hiểm của chiến tranh chưa làm mảy may tác động tới ý thức của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem thiến nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được mô tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã phổ biến hoá cái ko phổ biến đó và vượt lên cùng tất cả sự phấn đấu, cùng ý thức trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian truân như một điều thế tất, khó khăn ko mảy may tác động tới ý thức của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ đấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hứa, quyết tâm vượt gian truân nguy hiểm:”Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn hợp lý, nhịp nhàng theo nhịp rung hợp lý của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có tới 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất sáng sủa, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn ràng, sôi động như sự sôi động lập cập của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì tinh nghịch, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có nhẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần truồng, ko hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét lạ mắt trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ thân thiện với lời nói hằng ngày đấy càng làm nổi trội lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên đấy rất hiếm lúc gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người xoành xoạch thắng lợi và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm tới ngang tàng và sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn thân thiện với tự nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan kỳ vọng. Không dễ gì có được thái độ sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi xanh Việt Nam thời chống Mĩ. Phcửa ải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tỉnh và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 19)

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe ko kính

Hình ảnh của người lính trong kháng chiến luôn là chủ đề của rất nhiều nhà văn, thi sĩ với những hình ảnh không giống nhau về người lính. Và trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe ko kính” ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế hiên ngang, ý thức dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí đấu tranh thông qua hình ảnh của những chiếc xe ko kính.

Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã trình bày rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am tường đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng thâm thúy tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc trưng là những chiếc xe ko kính, hình ảnh lạ mắt đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng thâm thúy.

Trong bài thơ, tác giả đã vẽ nên một hình ảnh rất thân thiện và gắn bó với người lính, đó chinh là những chiếc xe ko kính.

Ở đây tác giả đã tả rất thực về những cái thiếu của chiếc xe nên đã tạo nên hình ảnh rất đặc trưng về chiếc xe ko kính trần truồng, dị hình và nó gây ấn tượng thâm thúy tới người đọc. Qua những sự thiếu thốn đó, tác giả còn muốn nói lên với chúng ta về sự khốc liệt của chiến tranh.

Đối với người chiến sĩ lái xe chiếc xe “ko kính” đem lại những cảm giác bất thần lúc lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ mở màn bằng cấu trúc lặp lại “ko có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, lạ mắt của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ gớm ghê tới đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả ko gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, thi sĩ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng đáng yêu qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian truân của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao nhưng mà nhẹ nhõm tới thế. Họ ko kêu ca, than vãn nhưng mà lại lấy chính cái gian truân của mình để khôi hài nữa chứ.

Đối lập với thực tiễn gian truân vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” trình bày sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thử thách, bất chấp, xem thường mọi gian truân. Gian khổ này dường như ko tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục tiêu, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi trình bày thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thử thách trước gian truân. Lời thơ có chỗ nhẹ nhõm, hợp lý như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như vang vọng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, quật cường nhưng mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Không có kính, ừ thì ướt áo
…………..
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Điệp cấu trúc ko có kính … ừ thì chưa cần trình bày tính cách ngang tàng, bất chấp tất cả khó khăn.

Không có kính che mưa thì hẳn nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy nhưng mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế đấy, hiên ngang nhưng mà sao yêu đời quá đi thôi!

Với chất liệu hiện thực lạ mắt, chỉ qua hai khổ thơ ba và bốn, bài thơ trình bày hình ảnh hào hùng của chiếc xe ko kính, qua đó khắc họa nổi trội hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 20)

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật đi vào trận chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh thản, vui tươi. Lái xe trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa, tuyến đường đấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các anh vẫn tràn đầy nghị lực bất chấp gian truân, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “ko kính, ko mui, ko đèn” nhưng mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều nhưng mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thử thách với mọi khó khăn:

Không có kính, ừ thì có bụi
………..
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những trở ngại thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì tới đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian truân thử thách ở đời). Trên tuyến đường tăng viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian truân. Chuyện vặt đấy nhưng mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc trưng là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, khuôn mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một khả năng đấu tranh rất vững vàng của họ, bởi ko vững vàng thì ko thể đùa vui tương tự giữa cái tuyến đường Trường Sơn khốc liệt này.

Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn ko nao núng. Các anh càng tĩnh tâm, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại thú vui cho người lính.Chấp nhận thực tiễn, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm sáng sủa sôi nổi: “ko có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thử thách, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Hình như gian truân nguy hiểm của chiến tranh chưa làm mảy may tác động tới ý thức của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem thiến nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được mô tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã phổ biến hoá cái ko phổ biến đó và vượt lên cùng tất cả sự phấn đấu, cùng ý thức trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian truân như một điều thế tất, khó khăn ko mảy may tác động tới ý thức của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.

Và sau thái độ đấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hứa, quyết tâm vượt gian truân nguy hiểm:”Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn hợp lý, nhịp nhàng theo nhịp rung hợp lý của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có tới 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất sáng sủa, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn ràng, sôi động như sự sôi động lập cập của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì tinh nghịch, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.

Có nhẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần truồng, ko hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét lạ mắt trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ thân thiện với lời nói hàng ngày đấy càng làm nổi trội lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên đấy rất hiếm lúc gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo của những con người xoành xoạch thắng lợi và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm tới ngang tàng và sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn thân thiện với tự nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hi vọng. Không dễ gì có được thái độ sáng sủa tới như thế nếu ko mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi xanh Việt Nam thời chống Mĩ. Phcửa ải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tỉnh và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 21)

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian truân, thử thách nhưng mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất sáng sủa, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian truân: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới sáng sủa: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính quân nhân cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh không hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng ko làm chùn bước, ý chí của người lính cách mệnh.

Và trong trận chiến tranh đầy gian lao, thử thách đấy, tình cảm đồng chí, đồng chí lại càng trở thành gắn bó và thân thiện với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bằng hữu suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường nhưng mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy ý thức kết đoàn, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là ý thức của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi tới thành công.

Những tình cảm đấy đã làm thành sức mạnh, tạo điều kiện cho những người lính trở thành mạnh mẽ và sáng sủa hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt âm u hơn.

Không có kính rồi xe ko có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc tới thông qua những cụ thể như xe “ko kính, ko đèn, ko mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc tới máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn ko ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng thắng lợi, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.

Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, kiêu hùng và đầy sáng sủa, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” đã để lại những ấn tượng thâm thúy trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ đấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (mẫu 22)

Trong cuộc trường chinh chống Mĩ để giải phóng quê hương, giành độc lập, tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật trung tâm, tụ hội những gì cao đẹp nhất.
Những chàng trai đó đã được nhân dân và toàn cầu khâm phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, là đề tài vô tận cho các thi sĩ, nhà văn. Là một thi sĩ quân đội, phục vụ trong đơn vị vận tải trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận thâm thúy cuộc sống người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, lạ mắt là Bài thơ về tiểu đội xe ko kính. Trong đó ba khổ thơ sau thật nổi trội:

Không có kính ko phải vì xe ko có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy tuyến đường chạy thẳng vào tim.
Thđấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lải.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…

Trên tuyến đường Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường để tiếp viện. Những chiếc xe và những chiến sĩ lái xe trở thành thân thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với phong cách thật lạ mắt.

Nguồn cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ hiện thực “chiếc xe ko có kính” và càng bất thần, gây ấn tượng mạnh mẽ vì ko chỉ một chiếc xe thôi nhưng mà là cả một “tiểu đội xe ko kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu thơ trước tiên.

“Không có kính ko phải vì xe ko có kính”

Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với tiếng nói giản dị, mộc mạc, giống như một lời nói của người chiến sĩ kể lể chiếc xe yêu quý nhưng mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường có kính và chiếc xe có kính là chuyện phổ biến, ko có gì đáng nói, đáng quan tâm.

Chi tiết tả thực “ko có kính” mới gây sự chú ý, bất thần và là một thực tiễn có sức khơi gợi mạch thơ. Nếu vế đầu của câu thơ có tính chất phủ định thì vế sau của câu thư lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh “ko phải vì xe ko có kính”. À, thì ra trước kia chiếc xe vẫn nguyên vẹn, lành lẽ với các bộ phận đấy chứ.

Vậy vì sao lại có sự ko phổ biến đó, vì sao cả một “tiểu đội xe ko kính”? Nhà thơ vào tư thế, vị trí của người chiến sĩ lái xe để trả lời:

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Thì ra lí do, nguyên nhân cũng tại chiến tranh nhưng mà ra cả. Điệp ngữ “bom” liên kết với các động từ “giật, rung” đã tái tạo lại ko khí, tính chất khốc liệt, gay go của trận chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo thực chất hung bạo, ngông cuồng của quân giặc. “Mưa bom, bão đạn” của chúng dội xuống đường Trường Sơn thật dữ dội, khốc liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, ý thức đấu tranh của người chiến sĩ. Sức ép của bom đạn lúc nổ, những mảnh bom, đạn trúng vào khiến “kính vỡ đi rồi”. Lời thơ vẫn nhẹ nhõm trình bày sự điềm nhiên của người cầm lái. Đối lập với thực tiễn khó khăn, khắc nghiệt về điều kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe.

Ung dung buồng lái ta ngồi

Từ “Ung dung” đặt trong phép đảo ngữ diễn tả thái độ tự tin, tĩnh tâm, ko một tẹo nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian truân, mặc kệ những nguy hiểm, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái độ đó xuất phát từ phẩm chất gan góc, người hùng. Từ chiếc xe ko kính người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài.

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 thật hợp lý. Nó trình bày sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, tĩnh tâm của người cầm lái. Điệp ngữ “nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp xuất phát từ tâm. hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chuyên chú đó biểu lộ niềm mến thương của anh với tự nhiên, cuộc sống và sự quyết tâm, vững vàng trong nhiệm vụ. Anh “nhìn đất” để thêm gắn bó mến thương tuyến đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc, để dẫn đưa chiếc xe đi an toàn, mau tới đích. Anh “nhìn trời” để tâm hồn thêm sáng sủa, bay bổng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh “nhìn thẳng” là nhìn về phía trước, nhìn vào tuyến đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian truân, thử thách của mình để thêm kiên quyết, tích cực nhưng mà sẵn sàng ứng phó, đương đầu với bao nguy hiểm, gian truân. Do đó, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao!

Ở khổ 2, chiếc xe ko còn bộ phận nào che chắn nên giờ đây người chiến sĩ đã xúc tiếp trực tiếp với bên ngoài lúc chiếc xe lao đi.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy tuyến đường chạy thẳng vào tim

Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh ko chỉ cảm thấy cơn gió vào “xoa” mắt đắng nhưng mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Cơn gió dường như cũng chẳng vô tình, gió đã vào “xoa” mắt đắng để làm cắt bớt vị đắng, sự khó chịu nơi mắt bởi những ngày đêm thức trắng để lái xe ko ngừng nghỉ. Cảm giác đấy càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn lúc anh “nhìn thấy tuyến đường chạy thẳng vào tim”. Sự liên tưởng thật đẹp và lạ mắt lúc chiếc xe lao tới, tuyến đường đã chạy ngược về phía người lái. Sự tin tưởng thích hợp với tấm lòng của người tài xế, đó là tấm lòng tận tâm, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn dạt dào tình yêu Tổ quốc quê hương nhưng mà cụ thể là tuyến đường thân thuộc thân thiện, tuyến đường hứng chịu bao đạn bom, máu lửa. Chiếc xe vẫn lao nhanh, tiến lên vì người lính biết rõ mục tiêu, lí tưởng công việc cao cả của mình là hiến dâng, hoạt động vĩ người nào? Để làm gì?

Thđấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Cuộc đấu tranh thật lắm nguy hiểm, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn, bay bổng lúc anh quan sát từ chiếc xe ko kính để thấy “sao trời, cánh chim”…. Có nhẽ, tâm hồn anh phải hoan hỉ, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận ”… như sa, như ùa vào buồng lái”. Nếu điệp ngữ “nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh tới sự xuất hiện bất thần, nhanh lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn đấy thật tinh tế và sáng sủa. Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, xao xuyến. Nhịp thơ trở thành nhanh gấp, sôi nổi trình bày tâm hồn yêu đời, yêu tự nhiên, sự sáng sủa của người chiến sĩ. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Gicửa ải phóng quân thời chống Mĩ. Như một thi sĩ đã từng viết:

Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể tự nhiên mang đầy thương tích.

Còn ở khổ 3, người chiến sĩ lái xe chiếc xe “ko kính” đem lại những cảm giác bất thần lúc lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:

Không có kính, ừ thì bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Khổ thơ mở màn bằng cấu trúc lặp lại “ko có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, lạ mắt của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.

Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ gớm ghê tới đáng sợ của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả ko gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, thi sĩ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây:

Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.

Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ đã ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính biến anh thành hình tượng ngộ nghĩnh qua cách so sánh của nhà thờ “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã được “hóa trang” thành một con người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian truân của anh chiến sĩ lái xe được diễn tả sao nhưng mà nhẹ nhõm tới thế. Họ ko kêu ca, than vãn nhưng mà lại lấy chính cái gian truân của mình để khôi hài nữa chứ. Đối lập với thực tiễn gian truân vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Nếu từ ngữ “ừ thì” trình bày sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thử thách, bất chấp, xem thường mọi gian truân. Gian khổ này dường như ko tác động, làm lay chuyển, ý chí, quyết tâm anh. Người chiến sĩ xem đó là dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.

Cội nguồn sức mạnh, nghị lực nơi người chiến sĩ là do mục tiêu, lí tưởng cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu bài thơ vừa ngang tàng lại vừa rất vui tươi, sôi nổi trình bày thái độ quyết tâm trong nhiệm vụ, thử thách trước gian truân. Lời thơ có chỗ nhẹ nhõm, hợp lý như chiếc xe vẫn đang tiến tới, có chỗ gợi cảm, trong sáng như vang vọng tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, quật cường nhưng mà cũng rất lãng mạn, trẻ trung, bình dị.

Bài thơ về tiểu đội xe ko kính thật là một bài thơ hay, rực rỡ của Phạm Tiến Duật. Chẳng phải trùng hợp nhưng mà thi sĩ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về…”. Chất thơ tỏa ra từ thực tiễn trận chiến đấu, từ thú vui của người chiến sĩ trong thời đại chống Mĩ. Chất thơ toát ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự thông minh bất thần của các cụ thể, hình ảnh và sự uyển chuyển, linh hoạt của nhạc điệu… đã khắc họa đậm nét hình ảnh anh lính Cụ Hồ.

Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối với mỗi người chúng ta ngày nay. Cảm ơn thi sĩ đã giúp người đọc cảm nhận thâm thúy về những người chiến sĩ của một thời gian truân nhưng mà hào hùng, đã quên mình để đấu tranh, hi sinh cho dân tộc, tổ quốc. Phcửa ải sống sao cho xứng đáng để ko hổ thẹn với cha anh, ko phụ lòng của thế hệ cha anh, đó là tâm niệm của chúng ta lúc thưởng thức bài thơ lạ mắt này.

Bài viết liên quan

346 lượt xem