Cảm nhận về nhân vật bé Thu (10 mẫu) mới nhất 2023

Cảm nhận về nhân vật bé Thu lớp 9 Cánh diều gồm 10 bài văn mẫu 2023 mới, hay nhất giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.
300 lượt xem


Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

Cảm nhận nhân vật bé Thu hay nhất (Sơ đồ tư duy + 10 mẫu) - Văn 9
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

I. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam, tác giả của nhiều tác phẩm văn chương và kịch bản phim nổi tiếng.

Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" (1966) được tác giả viết khi đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, nội dung kể về câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh éo le, khốc liệt của chiến tranh.

- Giới thiệu khái quát nhân vật bé Thu:

Bé Thu là nhân vật chính trong tác phẩm với những nét tính cách vô cùng đáng yêu, cá tính, là biểu tượng cho tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng.

II. Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

- Tình huống truyện:

Cuộc gặp gỡ giữa hai cha con ông Sáu sau 8 năm xa cách: chỉ biết nhau qua tấm hình, trong lúc người cha mong mỏi được nghe tiếng con gọi ba thì người con lại không nhận cha, đến lúc nhận ra và biểu lộ tình cảm thì người cha phải ra đi.

Trở lại đơn vị, người cha dồn tất cả tình yêu thương vào việc làm cây lược ngà tặng con, nhưng chưa kịp trao cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mĩ - Ngụy.

- Cảnh ngộ của bé Thu: Ba đi chiến đấu từ khi bé còn rất nhỏ, nên hình ảnh người ba trong bé vô cùng ít ỏi. Gia đình chỉ cho bé xem hình ba mà thôi. Chính điều này đã gây ra những bi kịch giằng xé khi ba cô bé trở về thăm nhà mấy ngày sau tám năm xa cách.

* Bé Thu trong ngày đầu gặp cha

Khi mới gặp, ông Sáu đưa tay ra đón Thu:

Thu đã giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác, lạ lùng, rồi hoảng sợ, mặt tái đi

Khi thấy ba em bỏ chạy vụt vào trong nhà và cầu cứu má

-> Hồn nhiên, ngây thơ hòa chút sợ hãi.

=> Thu không chấp nhận sự thật vì người ba mà mình xem trong hình không giống như ông Sáu ở ngoài thực.

* Bé Thu trong khoảng thời gian ông Sáu ở nhà

Khi ba muốn gần gũi và vỗ về thì bé Thu xô ra, xem ông Sáu như người lạ

Thu quyết không chịu gọi ông là ba, nói trống không, bất chấp sự trách móc của mẹ.

Lúc phải chắt nước nồi cơm vừa to, vừa nặng quá sức mình, con bé cũng không chịu nhờ ông Sáu. Nó tự xoay sở để không phải gọi ông là ba, thậm chí gọi còn ông là "người ta".

Khi ông Sáu gắp cho miếng trứng cá, nó liền hất luôn ra, làm đổ cả bát cơm.

Lúc ông Sáu không kìm được nỗi đau khổ nên đánh nó, nó lập tức bỏ sang nhà bà ngoại.

=> Bé Thu phản ứng rất quyết liệt, thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh song cũng rất cá tính.

* Bé Thu khi nhận ra cha

- Khi bỏ sang nhà bà ngoại, Thu đã được ngoại giải thích, lí giải vì sao ba lại có vết thẹo dài đó, cuộc sống của ba gian khổ như thế nào, và chính chiến tranh đã khiến cho ba có một vết thương như thế.

-> Cô bé đã vô cùng buồn và áy náy, trằn trọc mãi không ngủ được, “nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn…”.

- Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người:

Không còn bướng bỉnh và lạnh lùng hay nhăn mày cau có như trước "vẻ mặt nó sám lại buồn rầu... nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa".

Khi bắt gặp cái nhìn trìu mến, buồn bã của ba, đôi mắt nó bỗng xôn xao.

-> Đó là cái xôn xao của sự đồng cảm, nhận ra những tiếc nuối, xót xa, yêu thương trong ánh mắt của ba.

- Khi ông Sáu cất lời từ biệt:

Con bé bỗng cất lên tiếng gọi ba xé lòng - tiếng gọi bị kìm nén suốt tám năm, tiếng gọi chất chứa bao tình yêu thương thắm thiết.

"Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”

Nó "ôm chặt lấy cổ ba", "nói trong tiếng khóc" để giữ không cho ba đi.

Nó khóc nức nở, hôn ba, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả lên vết thẹo của ba.

-> Tiếng khóc vừa là tiếng khóc của sự ân hận, vừa là tiếng khóc của tình yêu thương, của nỗi buồn xa cách.

=> Dường như lúc này mọi khoảng cách giữa Thu với ba đã bị xóa bỏ. Cô bé không giấu giếm tình cảm của mình dành cho ba, nó lo sợ ba sẽ đi mất, cố mọi cách để giữ ba ở lại.

=> Tình yêu thương mãnh liệt Thu dành cho ba đã khiến tất cả mọi người xung quanh đều xúc động.

* Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật

Tạo dựng tình huống truyện đầy éo le, bất ngờ;

Lựa chọn thời gian ngắn ngủi ba ngày để tạo độ nén về thời gian, độ căng của cảm xúc;

Miêu tả tâm trạng nhân vật qua cử chỉ, hành động, lời nói thể hiện sự quan sát tỉ mỉ và am hiểu tâm lí trẻ thơ của nhà văn.

Nghệ thuật liệt kê được sử dụng hiệu quả.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của truyện, của hình ảnh nhân vật.

Nêu cảm nhận của em về nhân vật bé Thu.

 

Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà hay nhất – 3 bài văn về bé  Thu ngắn gọn 2023

Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà (mẫu 1)

Chiếc lược ngà là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng được viết vào năm 1966 tại chiến trường miền đông Nam Bộ trong những tháng ngày sục sôi đánh Mĩ. Truyện tuy viết về đề tài chiến tranh nhưng lại ca ngợi tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng mà bom đạn kẻ thủ không thể nào tàn phá nổi. Nhân vật bé Thu để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Một em bé đáng yêu, cá tính mạnh mẽ, bướng bỉnh nhưng rất giàu tình thương đối với cha mình

Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến khi bé Thu chưa tròn một tuổi. Bảy năm trời em sống với mẹ, thiếu vắng tình yêu thương của cha. Mãi đến khi Thu lên tám tuổi, cha mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Chỉ vì vết sẹo trên mặt cha do chiến tranh gây ra đã khiến bé Thu không chịu nhận ông là cha. Đến khi bé Thu hiểu ra thì cũng là lúc cha phải lên đường trở về cứ. Cuộc chia tay trên bến sông đẫm đầy nước mắt khiến ai cũng ngậm ngùi. Chiến tranh đã cướp cha của em mãi mãi. Chiếc lược ngà mà cha em đã nhờ bác ba gửi lại là kỉ vật cuối cùng, là mối liên kết duy nhất tình cha con của bé Thu

Dưới ngòi bút của nhà văn, bé Thu hiện lên là một đứa trẻ ương ngạnh, bướng bỉnh, có cá tình mạnh mẽ. Khi đã mang trong mình một niềm tin sâu sắc không gì lay chuyển được rằng người đàn ông đang đứng trước mặt mình đây với vết sẹo dài bên má phải không phải là cha ruột của mình. Bởi gương mặt của ông ta hoàn toàn khác hẳn với hình ảnh người cha chụp trong bức ảnh chung với má thì bé Thu nhất quyết không chịu gọi ông Sáu một tiếng ba.

Mặc dù ông Sáu đã tìm đủ mọi cách gần con, yêu thương chăm sóc cho con nhưng đáp lại bé Thu vẫn tỏ ra ngờ vực xa lánh. Sự ương ngạnh, cứng đầu đó của bé Thu được tác giả miêu tả qua hàng loạt các chi tiết rất cụ thể, sinh động. Mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó bảo lại: “Thì má cứ kêu đi”. Mẹ nó nổi giận quơ đũa dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng: “Vô ăn cơm”. Ông Sáu vẫn ngồi im chờ nghe nó gọi một tiếng ba nhưng nó từ trong bếp nói vọng ra: “Cơm chín rồi”, và quay sang bảo mẹ: “con kêu rồi mà người ta không nghe”.

Dù mọi người đã cố tình đặt nó trong tình huống gây cấn, bắt nó phải gọi ông Sáu là ba nó cũng không gọi. Nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ. hành động liều lĩnh của nó khiến cho ông Sáu cũng phải lắc đầu, mỉm cười trước sự bướng bỉnh của con.

Xung đột lên đến đỉnh điểm khi bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ. Ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.

Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp. Nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc. Điều đó là hiển nhiên đối với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.

Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho ông Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự thay đổi trên khuôn mặt của ông Sáu chưa có ai giải thích với nó. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má – người ba với gương mặt không có vết sẹo dài.

Trong tâm hồn em chỉ có duy nhất hình ảnh của người cha có trong bức ảnh chụp chung với má. Cho nên em hoàn toàn cự tuyệt, không chấp nhận tất cả những sự yêu thương của ông Sáu dành cho mình. Như vậy sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là cha cho thấy tình thương của em dành cho cha thật mãnh liệt. Em chỉ gọi cho và đón nhận tình thương của cha khi em biết chắc đó là cha mình. Không ai có thể thay đổi tình cảm và hình ảnh của cha trong lòng em.

Cùng với cá tình ương ngượng, bướng bỉnh, mạnh mẽ, ta còn nhận ra bé Thu là một cô bé giàu tình cảm và rất thương cha mình. Sau khi được bà ngoại giải thích và hiểu ra vì sao cha em, ông Sáu có vết sẹo dài trên má phải, em lấy làm ân hận vì bấy lâu nay đã có những hành động ngỗ ngược với cha mình. Đêm đó em cứ “lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Nỗi buồn bã, day dứt ân hận, ngày mai ba đã ra đi làm sao có thể chuộc lại lỗi lầm mình đã gây ra.

Sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị chào từ biệt mọi người lên đường, nó chỉ dám đứng từ xa nhìn ba nó. Mặt nó sầm lại buồn rầu. Rồi đến khi ông Sáu chào từ biệt nó lên đường, tình cảm cha con trỗi dậy mạnh mẽ, không thể kiềm chế cảm xúc của mình được nữa, nó bỗng kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó chờ đợi được thét lên trong mấy năm qua nay chợt vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Tiếng “ba…a…a…ba” ấy chứa đựng tất cả tình yêu thương, lòng mong đợi, niềm hạnh phúc tột cùng và cả những xót xa, tủi hận mà nó cố kìm nén trong lòng bấy lâu. Nó muốn cho cha nó biết tình yêu mà nó dành cho cha nó là rất lớn, rất nhiều, nhiều đến vô cùng vô tân.

Tiếng kêu đó nghe thật chua xót ẩn chứa trong đó là biết bao tình yêu thương lẫn nỗi xót xa ân hận của nó dành cho cha mình. Rồi nhanh như con sóc nó chạy lại ôm chầm lấy ba nó hôn cùng khắp. Nó hôn lên tóc,…và hôn cả vết sẹo dài của ba nó. Giờ đây, nó không còn cảm giác ghê sợ nữa mà là nỗi vui mừng hạnh phúc, tự hào hãnh diện của đứa con khi được sà vào lòng cha, được cha ôm ấp, nâng niu. Giây phút thiêng liêng kì diệu ấy nó đã khao khát được chờ đợi bấy lâu nay mới được thoả nguyện. Nó khóc, nó siết chặt vòng tay như sợ ba nó đi mất.

Ba nó dỗ dành, nó dặn ba mua về cho nó chiếc lược. Không phải cần được ba tặng cho mình một món quà mà muốn dùng lời nói đó để cha ngày đêm nhớ rằng nơi quê nhà con đang tha thiết mong đợi, cha hãy dũng cảm chiến đấu, đánh đuổi thằng Tây để cha con sớm ngày gặp lại.

Nhận chiếc lược ngà, kỉ vật cuối cùng mà cha để lại hiểu được tình thương của cha dành cho mình. Bé Thu tự hào về cha, lớn lên em làm công tác giao liên để nối tiếp truyền thống đấu tranh hào hùng của cha. Hình bóng cha luôn sống mãi trong trái tim của người con gái nhỏ. Đó cũng chính là sự chiến thắng của tình người tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ (cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên. Tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

Truyện Chiếc lược ngà đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Nhân vật bé Thu là hiện thân sinh động cho hình ảnh những nạn nhân nhỏ bé, vô tội của chiến tranh, là lời tố cáo mạnh mẽ cuộc xâm lược phi nghĩa và tàn bạo của kẻ thù.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà (mẫu 2)

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ông ở tỉnh An Giang. Ông đã tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Thực Dân, Đế Quốc của dân tộc. Vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước ông bắt đầu sáng tác văn học, ông viết nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,.. Năm 1966 khi hoạt động ở chiến trường Nam Bộ đã sáng tác tập truyện “Chiếc lược ngà” và truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được trích trong tập truyện cùng tên này. Câu chuyện đã làm người đọc xúc động về tình cảm cha con giữa bé Thu và ông Sáu, cũng như thấy được những đau khổ mà chiến tranh đã gây ra cho con người.

Hình ảnh cô bé Thu là nhân vật trọng tâm trong câu chuyện, được tác giả khắc họa là một cô bé ương bướng, lì lợm nhất quyết không gọi ông Sáu là ba, nhưng khi hiểu ra mọi chuyện thì cô bé lại khác hoàn toàn là một người tình cảm, cô bé thương ba và không muốn cho ba đi. Sau tám năm đi chiến đấu trở về, ông Sáu mang theo nỗi nhớ đứa con gái bé bỏng của mình, ông mong con gái gọi một tiếng “ba” nhưng khi ông về tới ngôi nhà sau bao năm xa cách, thì cô con gái của ông đã tỏ ra hoảng sợ và ngờ vực. Cô bé sợ hãi trước khuôn mặt của ông Sáu, trước vết sẹo dài bên má phải của ông, cô bé hoảng sợ, mắt chớp chớp như hỏi đây là ai, mặt tái đi và vụt chạy kêu thét lên: “Má, má”. Đây là một cuộc gặp gỡ ngoài dự kiến của em, đây không phải người đàn ông trong ảnh mà mẹ cho em xem, bà em là người khác chứ không phải người đàn ông có vết sẹo đáng sợ trên mặt kia.

Ba ngày ông Sáu được nghỉ phép Thu đã tỏ ra lạnh lùng và xa lánh ông Sáu, nhất quyết không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ba”. Tình cảm của em đối với ông Sáu ngày càng đi xuống từ việc em nói trống không với ba: “Vô ăn cơm, cơm chín rồi” quá đáng hơn là em coi ông là người ngoài: “con gọi rồi mà người ta không nghe”,..những điều đó đã khiến cho tim ông Sáu đau thắt lại, ông không làm gì ông chỉ lặng im và tiếp đến chi tiết quan trọng cũng chính là việc bé Thu không chấp nhận sự chăm sóc của ông Sáu: khi ông gắp cái trứng bỏ vào bát cơm: “Nó liền lấy đũa xoi vào chén để rồi bất thần hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe mâm”. Lúc này ông Sau không thể chịu đựng được nữa, ông đã ra tay đánh nó một cái. Nó không khóc, lặng gắp cái trứng vô bát rồi bỏ đi sang nhà ngoại.

Sau khi sang ngoại về nó đã suy nghĩ rất nhiều, sáng hôm ông Sáu đi, tình cảm cha con bỗng chỗi dậy. Trong khung cảnh tiễn ông Sáu quay lại đơn vị, mọi người chỉ biết lặng im, không nói gì chắc trong lòng mỗi người có những suy nghĩ riêng. Thì bỗng một tiếng thét làm phá vỡ không gian yên lặng đó: “Ba…a..a ba”, cái tiếng ba thiêng liêng, nó đã kìm nén bao lâu nay đến ngày hôm nay đã được bật ra thành tiếng, rồi chạy tới: “ Nó nhảy tót lên ôm cổ ba nó”. Sau đó nó hôn đầu hôn cổ, hôn tất cả và hôn cả cái sẹo dài và đáng sợ bên má phải của ông Sáu. Đến đoạn này, người đọc xúc động vui cho ông Sáu, con gái ông đã hiểu được lòng ông và gọi ông là cha.

Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 ta thấy được chiến tranh thật khốc liệt nó không chỉ tàn phá về vật chất mà còn tàn phá cả tinh thần, tàn phá tình cảm gia đình, khiến con không nhận cha. Không chỉ có vậy nó còn làm cho mẹ mất con, vợ mất chồng, con không cha,.. Ta thấy được tình cảm gia đình là điều thiêng liêng nhất cuộc đời này. Cô bé Thu sau khi nhận ra cha, đã không còn là cô bé bướng bỉnh và lì lợm nữa, cô thương ông và muốn ông sẽ mãi ở bên cạnh cô. Câu chuyện đã khiến cho người đọc cảm thấy xúc động và cho đến hiện nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà (mẫu 3)

Trên thế giới này, điều quý báu nhất chính là tình yêu gia đình. Thông qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”, tác giả đã cho thấy tình yêu cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu.

Bé Thu mang trong người tích cách mạnh mẽ, ương bướng lại gan dạ. Về đầu, bé Thu không chịu nhận ông Sáu làm cha cũng chỉ vì bức hình mà cô xem được lại không giống ông Sáu. Những điều đó là vì vết sẹo trên gương mặt ông Sáu. Mặc dù mọi người trong nhà đều khẳng định ông Sáu là cha của cô nhưng cô vẫn không thừa nhận. Nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật, tình cha con cũng sẽ chẳng thể nào phủ nhận được. Đến cuối cùng, bé Thu cũng đã chấp nhận ông Sáu làm cha, tình yêu cha cũng dần dần đón nhận ông Sáu, cứ thế từng ngày khắc sâu vào trái tim cô. Một tình yêu sâu sắc mà sẽ chẳng bao giờ mờ nhạt.

Thật ra từ nhỏ bé Thu đã vô cùng yêu cha, điều đó đã được thể hiện rõ nét qua lúc cô không nhận ông Sáu làm cha. Bỏ ngoài tai những lời nói đó là cha của mình, cô vẫn không chịu chấp nhận. Có lẽ, khi đó cô đã nghĩ cha mình không có một vết sẹo trên mặt. Và thêm một phần nào đó trong tim, cô có thể muốn bảo vệ người cha mình hằng mong nhớ từng đêm từng ngày rồi đến từng năm. Trong tiềm thức, cô chỉ xem người trong hình mới thực sự là cha mình, không một ai có thể thay đổi điều đó. Tình yêu của bé Thu dành cho ông Sáu là vô cùng to lớn, từ nhỏ cô đã yêu cha mình một cách sâu đậm, khi lớn lên thì tình yêu cũng sâu đậm hơn.

Bé Thu yêu cha như vậy, có lẽ tình yêu đó mang theo cả những tháng ngày mất mát thiếu vắng tình yêu cha mà lớn lên. Cho dù ông Sáu không ở bên cô nhưng cô không hề giận dỗi mà vẫn yêu ông Sáu. Một tình yêu thiêng liêng đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ khi ấy của cô. Tình yêu ấy đã làm cho cuộc sống của bé Thu trong những ngày thiếu đi ông Sáu không trở nên trống vắng. Trái tim của cô đã được sưởi ấm bởi tình yêu cha con giữa hai người họ. Mặc cho ở nơi đâu hay xa cách mới thì tình yêu cha con vẫn nảy nở và tạo thành một ngọn lửa sáng nhất, ấm áp nhất.

Có thể thấy rằng tình yêu bé Thu dành cho cha của mình là loại tình yêu vĩ đại nhất. Một tình yêu thiêng liêng luôn được ấp ủ từ nhỏ cho đến lúc ông Sáu mất đi. Tình yêu đó vẫn lớn lên theo thời gian mà không có dấu hiệu ngừng lại. Đó chỉ là một tình yêu đơn giản của cô dành cho cha mình nhưng lại sâu sắc đến lạ thường. Sự tồn tại của tình yêu này đã cùng cô đi qua mọi sự việc trong cuộc sống. Cùng cô lớn lên tựa như một người bạn thân vô hình cùng sống chung một thế giới riêng chỉ thuộc về cô và nó. Tất cả mọi thứ đều xuất phát từ tình yêu vĩ đại, tuyệt vời mà coi dành cho cha mình.

Tình yêu cha con sẽ mãi mãi tồn tại trên thế giới này. Tình yêu cũng vĩ đại như bao tình yêu khác. Một loại tình yêu soi sáng cuộc đời ta, mang lại cho ta một nguồn năng lượng. Tình yêu cha con với cùng to lớn nên hãy luôn trân trọng nó. Đừng để đến khi mất rồi thì hối tiếc tất cả những gì đã qua

Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã thấu hiểu được tâm lí trẻ con nên đã cho ta thấy một bé Thu hồn nhiên, bướng bỉnh với tình yêu thương cha vô tận, làm lay động người đọc. Tình yêu thương cha của bé Thu luôn là một tình cảm sâu sắc đối với mọi người.

Cảm nhận về bé Thu trong Chiếc lược ngà (mẫu 4)

Nhân vật bé Thu được nhà văn chú ý xây dựng với những nét vừa hồn nhiên vừa hết sức sâu sắc. Bé Thu là một đứa bé bướng bỉnh, gan lì, đáo để nhưng lại thương cha hết mực. Có thể nói, hình ảnh ông Sáu trong lòng bé Thu được bao bọc bởi sự tinh khiết, mãnh liệt, bất khả xâm phạm.

Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.

Trong ba ngày nghỉ phép, Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi nhưng Thu nhất quyết không chịu gọi tiếng ba. Má dọa đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại nổi trổng. Dù bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi. Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.

Xung đột đạt đến cao điểm khi bé Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé – bị đòn, không khóc, chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.

Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “mày cứng đầu quá vậy?”. Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.

Trước khi ông Sáu trở về, ngày nào nó cũng mong nhớ. Nhiều lần chị Sáu lên thăm ông Sáu, nó muốn đi nhưng mẹ nó không cho vì đường xa nguy hiểm. Lúc biết được ông Sáu chính là cha nó, nó hối hận lắm, nằm thở dài và nghĩ đến ngày mai. Trước lúc ông Sáu lên đường, tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.

Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó còn rất thương ba nữa.

Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, mặt nó sầm lại buồn rầu. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bống xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.

Tiếng gọi ba võ òa từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt hơn 7 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.

Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới…dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba Nó hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nha. Em khóc vì thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc đầu.

Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

Qua nhân vật bé Thu, người đọc nhận thấy, tác giả quả rất am hiểu tâm lý trẻ em nên đã diễn tả sinh động tình cảm của bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động. Ông còn rất yêu thương trẻ thơ và quý trọng những cảm xúc hồn nhiên, phẩm chất anh hùng cao đẹp của tuổi trẻ.

Dàn ý Phân tích nhân vật bé Thu (30 bài văn mẫu) - Ngữ văn lớp 9

Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (mẫu 5)

Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm hay và nhiều xúc cảm về tình cha con trong thời chiến. Câu chuyện cha con của bé Thu và ông Sáu thực chất không hề lạ lẫm nhưng lại có màu sắc rất riêng. Nguyễn Quang Sáng đã có nhiều dụng công để phân tích nhân vật Thu, điển hình của những cô bé nhỏ nhắn nhưng có sức mạnh phi thường, tuy có chút ngang ngạnh nhưng lại nhiều chiều sâu cảm xúc, sâu sắc vô cùng.

Bé Thu là một nhân vật của văn chương nhưng bé Thu được miêu tả và hiện hữu một cách rất chân thực trong đời sống của Việt Nam ta trong những năm tháng ròng rã của chiến tranh khi đó. Thời kì đó, những em bé có hoàn cảnh như Thu là nhiều vô kể, tất cả đều do chiến tranh, khói lửa bom đạn mà ra. Chiếc lược ngà được kể lại qua sự chứng kiến của anh Ba, người đồng đội của ông Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của anh Ba, người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn tình cảm cha con thiêng liêng, bất tử của hai cha con ông Sáu.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do chiến tranh gian khổ và kéo dài. Khi ông Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ròng rã tám năm mới về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Tám năm đã là cả quãng đời của một đứa trẻ như Thu, tám năm trong đời không biết mặt cha, không rõ nổi hình dung, bởi vậy, việc nhận cha một cách đột ngột với Thu quá bất ngờ, không dễ dàng gì để chấp nhận. Em đối xử với ba như người xa lạ. Thu không chịu nhận ông Sáu là ba.

Bé Thu còn rất nhỏ tuổi nhưng rất có cá tính. Một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột của ông Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong tám năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.

Thu vẫn cố chấp với suy nghĩ riêng của bản thân. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm ông Sáu đau đớn tột cùng. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi ông Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh.

Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé tám tuổi mong chờ giây phút gặp ba không kém gì so với nỗi lòng của ông Sáu. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra, trong hoàn cảnh này là có chút đau đớn vì sắp phải xa ba.

Bé Thu là một cô bé rất đặc biệt, sự thể hiện tình cảm ra bên ngoài cũng rất đặc biệt, mới có 8,9 tuổi nhưng lại có chính kiến rất rõ ràng, rất chín chắn và chững chạc so với lứa tuổi. Tình cảm cha con của ông Sáu được bùng nổ mạnh mẽ từ những cảm xúc của Thu. Tình cha con cao đẹp, thiêng liêng và bất diệt.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (mẫu 6)

Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn Chiếc lược ngà năm 1966, khi cuộc chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam đang trong thời kì ác liệt nhất. Truyện được viết dựa trên một câu chuyện mà nhà văn đã nghe kể lại. Tác phẩm ra đời cỗ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh chống giặc của quân và dân miền Nam.

Truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng vào lòng các bạn đọc vì tác giả xây dựng hình ảnh bé Thu đáng yêu với tình yêu ba tha thiết. Câu chuyện được xây dựng với nhiều tình tiết cảm động, lôi cuốn người đọc: Khi ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi anh có dịp về thăm nhà thì con gái anh đã lên 8 tuổi,

Nhưng bé Thu nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết sẹo trên má của ông Sáu không giống với bức ảnh chụp chung với má bé Thu. Ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng bé Thu cũng không chịu gọi là ba. Đến khi bé Thu nhận ra ba mình thì lúc đấy ông Sáu phải đi. Ông Sáu hứa sẽ mang về tặng chiếc lược ngà cho con. Chiếc lược ngà đã làm xong nhưng chưa kịp trao tận tay cho con mà anh đã hi sinh, trước khi nhắm mắt anh nhờ người bạn chuyển lại chiếc lược ngà cho con gái .

Nhân vật bé Thu chỉ mới 8 tuổi, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé lì lợm khi trong mọi tình huống em nhất quyết cũng không gọi tiếng ba, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho bé Thu , cuối cùng ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều thử thách cá tính của bé Thu, dù là bị mẹ quơ đũa đánh hay bị dồn vào thế bí, bé Thu luôn bộc lộ là người kiên quyết, mạnh mẽ. Trong tâm trí bé Thu chỉ có hình ảnh một người ba là người chụp chung với má . Người ba ấy không giống ông Sáu bởi vì trên má ông Sáu có vết sẹo là dấu tích của chiến tranh để lại , bé Thu còn quá nhỏ để có thể biết sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ .

Nhưng bé Thu có bướng bỉnh, gan góc đi chăng nữa thì cũng chỉ là một cô bé 8 tuổi, tâm hồn còn rất trong sáng và hồn nhiên . Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ thơ nên miêu tả rất chân thực và sinh động. Khi bị ba đánh, bé Thu đã gắp lại trứng vào mâm rồi lặng lẽ bước ra , có lẽ là do bé Thu đã cảm thấy mình sai. Rồi còn những hành động như: “Xuống xuồng , mở lòi tói, cố làm dây khua thật to rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm rồi cố gây tiếng động để gây sự chú ý để mọi người ra dỗ dành bé. Điều đó cho thấy bé Thu dù bướng bỉnh cứng cỏi nhưng một khía cạnh nào đó bé vẫn muốn được sự dỗ dành, vỗ về từ mọi người .

Ở đoạn cuối khi bé Thu nhận ra ba thì cho thấy bé Thu là một người rất giàu tình cảm và tình yêu ba sâu sắc. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay trỗi dậy vào giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ là một cô bé không được ở cùng với cha khi một tuổi mà vẫn luôn thể hiện một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt đối với cha mình, dù người cha ấy chưa từng săn sóc , chăm lo cho nó. Và khi ba nó chào trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu trào lên. Bé Thu không nén nỗi cảm xúc mà thét lên tiếng “Ba ..” vừa kêu vừa chạy xô đến ông Sáu và ôm ông Sáu khiến cho người đọc không thể nào không cảm động với tình cha con ấy. Tiếng ba ấy không chỉ khiến ông Sáu bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng trong nó.

Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng chính là vết sẹo. Chính cái sẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Vì cái sẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của dân tộc.

Nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng cho người đọc một cách sâu sắc với hình ảnh một bé gái bướng bỉnh nhưng giàu tình cảm . Tác phẩm còn là một áng văn ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (Mẫu 7)

Chiếc lược ngà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Trong đó nổi bật lên hình ảnh cô bé Thu với nhiều phẩm chất vô cùng đáng quý. Để phân tích cũng như cảm nhận về nhân vật bé Thu, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về tác giả và tác phẩm như sau.

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, với bút danh là Nguyễn Sáng. Quê hương của nhà văn thuộc ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm kháng chiến đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ.

Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Tác giả để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”, “Người con đi xa” … Tiểu thuyết có: “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu”. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người “một thời để nhớ, một thời để yêu”.

Tác phẩm này ra đời vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ, trong hoàn cảnh những ngày tháng sôi sục đánh Mĩ. Truyện kể về ông Sáu, một cán bộ “nằm vùng tại miền Đông” da diết thương nhớ vợ con, dùng ngà voi làm thành chiếc lược ngà xinh xắn, trước lúc từ thương đã nhờ bạn chiến đấu trao lại chiếc lược ngà cho đứa con gái bé bỏng, yêu thương.

Qua đó, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.

Những cảm nhận về nhân vật bé Thu hiện lên đầu tiên chính là hình ảnh một cô bé miền Nam khác thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em. Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, có lẽ đây là tình huống oái oăm và trớ trêu của tác phẩm.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”

Cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện ở khoảng thời gian khi ông Sáu ở nhà. Trong ba ngày đó, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.

Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vào ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”.

Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.

Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm.

Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, lúc đó Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuống cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính như Thu.

Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường.

Chính thái độ ngang ngạnh, quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là cha kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực.

Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của cô bé phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường. Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đây là những diễn biến hoàn toàn hợp lý.

Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện khi cô bé nhận cha của mình. Những nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường.

Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: – Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như một tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.

Cảm nhận về nhân vật bé Thu đến đây đã khiến mỗi người đọc không khỏi rơi lệ. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: - Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận.

Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Thật xúc động biết bao, chỉ với những hành động này đã giúp ta cảm nhận về nhân vật bé Thu một cách đầy sâu sắc.

Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó.

Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Có thể thấy, xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu.

Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước. Đến đây, những cảm nhận về nhân vật bé Thu còn cho thấy đó chính là sức mạnh của tình yêu gia đình cùng tình yêu quê hương đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu – một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát “đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo” nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Chỉ với những chi tiết trên, cảm nhận về nhân vật bé Thu đã hiện lên thật chân thực và rõ nét.

Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt”, điển hình như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho, chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi.

Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau; để lại ấn tượng về một em bé Nam Bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (Mẫu 8)

Từ lâu, tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã được đánh giá cao trong giới văn học. Nó gây ấn tượng bởi cái cách nhà văn xây dựng cốt truyện, xây dựng hệ thống nhân vật. Tác phẩm là đỉnh điểm cao về tình phụ tử – một đề tài chưa được nhiều nhà văn khai thác. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện thấm đẫm nước mắt giữa ông Sáu và bé Thu – con gái của ông Sáu. Câu chuyện trong tác phẩm sẽ không hay nếu thiếu đi nhân vật ông Sáu và càng không thể đến cao trào nếu thiếu đi nhân vật bé Thu. Nếu nói rằng cả tác phẩm là một cơ thể thì bé thu chính là linh hồn trong cơ thể ấy.

Bé Thu là một em bé phải chịu biết bao đau thương trong chiến tranh, gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa, thương cảm mãnh liệt. Và bé Thu cũng chính là hình ảnh đại diện cho những đứa trẻ sống trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc ấy. Thu sinh ra chưa đầy một tuổi thì đã phải xa cha, lúc ấy em còn quá nhỏ để có thể ý thức được đây là cha mình, để có thể ghi nhớ hình ảnh của người cha trong tâm trí. Chính vì lẽ đó mà đến tận năm 8 tuổi, Thu cũng chỉ biết mặt ông Sáu qua tấm ảnh chụp chung với má. Tuổi thơ của Thu là một tuổi thơ sống thiếu tình cha. Dù ở nhà, mẹ em có thể đảm tốt mọi công việc của đàn ông nhưng vị trí người cha trong trái tim bé bỏng của Thu vẫn còn bỡ ngỡ. Em chưa thực sự có cái nhìn chân thành về người cha của mình. Sống thiếu cha nghĩa là Thu đã trải qua một tuổi trẻ rất bất hạnh rất thiếu thốn tình yêu thương từ người cha. Từ nhỏ cho đến khi 8 tuổi, trong Thu chỉ có một khát khao cháy bỏng, khát khao được gặp cha. Nhưng éo le thay, khi cha trở về, mang theo vết sẹo trên mặt từ chiến trường trở về khiến em không thể nhận ra đây là cha của mình. Người đàn ông mang vết sẹo này không giống với người cha mà suốt 8 năm qua Thu trông ngóng, đó cũng là điều khiến Thu không nhận ra cha của mình. Bất hạnh thay, chiến tranh đã khiến ông Sáu phải chịu những nỗi đau về thể xác nhưng nỗi đau ấy có là gì so với việc đứa con gái duy nhất không chịu nhận mình là cha. Giây phút mà Thu gọi tiếng “ba”, tất cả như ngưng đọng rồi vỡ òa trong tiếng nức nở của em. Ông trời như muốn trêu đùa với lòng người, khi Thu nhận ra cha thì đó cũng là lúc ông Sáu phải ra chiến trường làm nhiệm vụ để rồi tiếng gọi “ba” trong vội vã, nức nở của Thu cũng là tiếng gọi cuối cùng mà cha nó có thể nghe. Lần gặp mặt ấy cũng là lần cuối cùng hai cha con có thể đoàn tụ. Thật sự bé Thu thiệt thòi, thiếu thốn rất nhiều nhưng tình cảm yêu thương mà đáng lẽ ra một đứa trẻ phải được hưởng.

Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm của người cha nhưng ở em lại sáng ngời bao vẻ đẹp đáng trân trọng, để lại trong lòng người đọc bao ấn tượng. Không thể nào quên Thu là một em bé đáo để, bướng bỉnh, có cá tính rất mạnh mẽ. Giây phút đầu tiên gặp ông Sáu, Thu sững sờ, hốt hoảng, không thể nhận ra cha mình. Nó sợ hãi thét lên “Má! Má!” rồi chạy vụt đi. Những ngày ông Sáu ở nhà dù ông có cố gắng gần con như thế nào thì Thu cũng tìm cách đẩy ông Sáu ra xa. Mặc dù ông Sáu đã đẩy Thu vào những tình huống khó khăn nhất nhưng em vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ông Sáu là cha. Trong ba ngày nghỉ phép lúc nào Thu cũng tỏ thái độ chống đối lại ông Sáu mà đỉnh điểm đó chính là sự việc ông Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén Bé Thu rồi em lấy đũa hất văng trứng cá ra khỏi bát tung tóe cả mâm cơm. Đến lúc này, cơn giận của ông Sáu bỗng bùng phát, không kịp suy nghĩ, ông đã vung tay đánh vào mông của bé Thu. Những tưởng Thu sẽ khóc, nhưng không, một lần nữa cái tính bướng bỉnh, cứng đầu của Thu lại trỗi dậy, nó bỏ bát cơm xuống, chạy ra bến, nhảy lên xuồng, nó còn cố ý khua dây tòi tói thật to để cho ông Sáu biết. Chiều hôm ấy, mẹ Thu sang dỗ thế nào em cũng không về. Qua đó ta lại thấy được tình yêu thương cha sâu sắc mãnh liệt của Thu khi chưa biết được nguyên nhân của vết thẹo thì em nhất quyết không nhận cha. Bởi trong tim Thu chỉ có duy nhất một người cha, đó là người đã chụp chung với mẹ trong tấm ảnh, đó chính là người cha mà nó mong chờ, tôn thờ, kính trọng. Điều này lại làm người đọc thêm xót xa, một cô bé 8 tuổi chưa được một lần gặp cha, chỉ biết cha qua tấm ảnh sơ sài để rồi khi gặp được cha, chính em lại không nhận ra đấy chính là người cha mình hằng mong nhớ. Khi được bà ngoại giải thích về vết sẹo trên mặt, tình cha con trong Thu bỗng bùng cháy mãnh liệt. Giây phút chia tay, Thu bỗng thốt lên “Ba…a…a”. Tiếng gọi ba thiêng liêng chan chứa cảm xúc, chỉ để gọi cho người cha của riêng mình mà Thu đã kìm nén suốt 8 năm trời nay lại có thể thốt ra, tiếng gọi xé tan sự im lặng của mọi người, xé tan sự đau khổ của ông Sáu, nghe thật xót xa, cùng với tiếng ba xé lòng ấy là những hành động vội vã có phần sợ hãi. Thu sợ ba phải đi chiến trường không thể quay trở lại. Thu muốn ông Sáu ở nhà với em. Những cái hôn thấm đậm tình thương mà bé Thu dành cho cha như phần nào xoa dịu những việc mà nó đã làm suốt 3 ngày qua đối với người cha đáng kính của nó. Tất cả những nhớ nhung, những tình cảm suốt 8 năm qua của cha con như được gói gọn trong giây phút này, trong chi tiết này. Tuy Thu bướng bỉnh, cứng đầu nhưng em cũng chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, không nhận cha vì cha khác tấm ảnh chụp chung với mẹ vì ông Sáu có vết sẹo trên mặt. Quả thực, ở đâu đó trong Thu vẫn rất trẻ con, khi từ biệt ông Sáu Thu đã nhờ ông mua cho mình một cây lược, đó như là lời hứa ông Sáu sẽ trở về, nhưng ông Sáu đã chẳng thực hiện được lời hứa ấy.

Qua tác phẩm, ta còn nhớ đến Thu là một cô bé có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Vì yêu nước, sau này khi lớn lên, Thu cũng đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, bước tiếp con đường mà ông Sáu đã chọn, con đường cứu nước… Việc trở thành cô giao liên cũng vì cha, nhiều tình yêu thương dành cho cha, muốn đánh đuổi quân giặc để trả thù cho cha.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (Mẫu 9)

Thật hạnh phúc biết bao với những ai sinh ra và lớn lên luôn có cha, có mẹ bên cạnh. Nhưng cũng thật bất hạnh khi ai đó sinh ra trên đời đã thiếu vắng tình cảm của mẹ cha. Và bé Thu trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một con người phải chịu cái cảnh bất hạnh như thế.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ.

Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt anh Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiều sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” Có cảm giác bé Thu sợ anh Sáu sẽ nhìn thấy những giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già dặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Trong khi “Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế.

Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lạ kia làm bố.

Khi đến ngày anh Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó”. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên Ba..., vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Tiếng kêu Ba từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.

Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.

Qua nhân vật bé Thu tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình yêu cha sâu sắc trong hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le của chiến tranh. Đồng thời cũng là lời khẳng định, dù chiến tranh xảy ra cũng không thể làm vơi cạn được tình người, tình cảm gia đình. Ngược lại chính trong hoàn cảnh này, tình cảm gia đình lại càng trở nên sâu nặng, tha thiết và cao đẹp hơn.

Cảm nhận nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà (Mẫu 10)

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá đó là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.

Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.

Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại quẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thương mà anh muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại.

Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”). ”Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con. ”Khi ông Sáu tìm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”, ”Ông thận trọng, tỉ mỉ…”, ”Ông gò lưng khắc từng nét…”. Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông Sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con.

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình tượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba - người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải, sống hết mình vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung dị, cảm động!

Bài viết liên quan

300 lượt xem