Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (15 mẫu) mới nhất 2023

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng lớp 9 Cánh diều gồm 15 bài văn mẫu 2023 mới, hay nhất giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.
150 lượt xem


Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng - Ngữ văn 9

 

Dàn ý Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng 

a) Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

·       Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.

·       Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.

- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt.

b) Thân bài

* Khái niệm tình huống truyện

·       Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.

·       Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.

* Phân tích tình huống nhặt vợ

Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:

+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.

+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.

Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…

- Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:

+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:

·       Ngoại hình xấu xí, thô kệch.

·       Tính tình có phần không bình thường.

·       Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.

·       Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.

·       Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.

+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).

+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ

·       Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.

·       Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên

·       Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn "ngờ ngợ".

+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:

·       Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.

·       Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.

* Giá trị của tình huống truyện

- Giá trị hiện thực:

+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

·       Cái đói dồn đuổi con người.

·       Cái đói bóp méo cả nhân cách.

·       Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

- Giá trị nhân đạo

+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.

·       Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.

·       Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"

·       Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.

+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

·       Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.

·       Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.

·       Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

c) Kết bài

·       Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

·       Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Dàn ý Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng 

a) Mở bài

- Giới thiệu tác giả và tác phẩm

- Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt" của Kim Lân.

b) Thân bài

* Khái niệm về tình huống truyện

- Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện trong tác phẩm “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”.

- Tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.

* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”

- Đó chính là việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ được xem là một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le mà Kim Lân đã phát hiện và thể hiện rất hay và lạ.

- Lạ:

+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo:

·       Xấu xí

·       Tính cách có phần hơi dở hơi

·       Nghèo, dân ngụ cư

-> Ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để khó, thậm chí không lấy được vợ.

+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.

+ Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ âu cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về

-> Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng.

- Éo le:

+ Tràng lấy vợ là việc được hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một đời người giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh giới mong manh, tưởng như âm - dương không có sự cách biệt.

-> Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.

+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Ở đây, mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ

-> Sự thật đáng buồn.

* Phản ứng của mọi người trước sự kiện Tràng có vợ

- Những người dân trong xóm ngụ cư:

+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” -> Ngạc nhiên tột độ.

+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.

+ Họ “cười rung rúc” rồi có người thở dài.

+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”

- Bản thân Tràng:

+ Mọi chuyện nhanh chóng quá đến mức chính Tràng - người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên.

+ Nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”

- Bà cụ Tứ - mẹ Tràng:

+ Vô cùng ngạc nhiên trước thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai

+ Bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “Có việc gì thế vậy?”

+ Ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:

·       Bà “đứng sững lại”

·       Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằng u?”…

=> Băn khoăn, ngạc nhiên.

+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.

+ Bà cụ Tứ cảm thấy tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì...” -> Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.

+ Sau đó là “mừng lòng”, chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…

* Ý nghĩa của tình huống truyện

- Tình huống truyện là một trong những yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.

- Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.

- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.

- Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ

- Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.

c) Kết bài

- Khái quát ý nghĩa của tình huống nhặt vợ đối với tác phẩm

- Cảm nhận của em về tình huống.

TOP 10 bài văn phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân -  BlogAnChoi

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 1)

Nạn đói năm 1945 đã trở thành một nỗi đau khủng khiếp của dân tộc ta khi nạn đói ấy đã cướp đi của đất nước ta hơn hai triệu đồng bào. Nạn đói ấy đã đi vào trong bao trang sách, những dòng văn, dòng thơ của các nhà văn nhà thơ và một trong số đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm kể về cuộc sống đời thường của những con người đang vật vờ giữa nạn đói năm 1945. Trong truyện ngắn này, Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện vô cùng đặc sắc, độc đáo và mới lạ trong Vợ nhặt, đồng thời qua đó, ông cũng thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Tình huống truyện vốn là những sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua đó, tác giả muốn bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình cũng như bộc lộ được tính cách, số phận của các nhân vật. Tình huống truyện là một lát cắt từ cuộc sống, tái hiện cả một xã hội thu nhỏ trong đó. Nó là hạt nhân, điểm nhấn cho ta thấy được một phần của cuộc sống, xã hội và con người. Đó là định nghĩa về một tình huống truyện, vậy tình huống truyện trong Vợ nhặt có gì đặc sắc?

Nếu chú ý, người ta có thể nhận ra sự đặc biệt của tác phẩm ngay từ nhan đề của nó, đó là Vợ nhặt. Nhan đề của tác phẩm gần như đã thu hút được hết sự chú ý của người đọc vào nó, khiến người ta háo hức đi tìm hiểu câu chuyện, bước vào trong cái tình huống đặc biệt mà Kim Lân đã cố sức tạo nên. Tình huống đó là một anh cu Tràng xấu xí, con nhà nghèo lại "nhặt" được một cô vợ giữa lúc nạn đói năm 1945 đang hoành hành dữ dội nhất. Chỉ vậy thôi cũng khiến người đọc phải băn khoăn, phải lo lắng rồi! Bởi giữa lúc mà đến bản thân còn không lo nổi, lại rước thêm "của nợ" về thì biết sống làm sao? Đó chính là cái đặc biệt, cái khác lạ mới mẻ trong câu chuyện của Kim Lân, đó cũng chính là thứ đã tạo nên được giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm này.

Với nhan đề "Vợ nhặt" thật độc đáo, "vợ" nhưng không phải "vợ cưới" mà lại là "vợ nhặt", nghe sao thật rẻ rúng quá đỗi. Nhan đề đã tạo nên sự hấp dẫn, một sự tò mò cho người đọc, bởi một chuyện trọng đại như lấy vợ mà ở đây lại "nhặt" được, thật quá sức bất ngờ! Thế nhưng, phải bước hẳn vào trong câu chuyện của Kim Lân, người đọc mới thực hiểu được "vợ nhặt" ấy là thế nào và hẳn ai đọc xong, cũng không khỏi ấn tượng, không khỏi đồng cảm cho số phận của những con người trong Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.

Người ta nói, Vợ nhặt là một tác phẩm truyện chứa đựng tình huống truyện độc nhất vô nhị, mới lạ và cực hấp dẫn. Điều đó thể hiện ở bối cảnh của truyện, ở cái tình huống vừa lạ lùng vừa éo le mà Kim Lân dựng lên.

Bối cảnh mà Kim Lân dùng để xây dựng lên tác phẩm là xã hội Việt Nam năm 1945, khi mà nạn đói khủng khiếp ấy tràn đến, cướp đi của dân tộc ta hơn hai triệu đồng bào. Giữa cái bối cảnh ấy, mọi sự đều trở nên u ám, tối tăm, bởi cuộc sống của con người lúc nào cũng bị bủa vây bởi cái chết. Cái chết cứ rình rập, nhăm nhe trong từng câu chữ, con người trở nên "xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", ám ảnh, thê lương vô cùng. Ở trong cái tình thế như vậy, đến lo ăn cho chính mình còn khó khăn, chẳng ai dám nghĩ tới một chuyện gì khác, mà nhất là cái chuyện dựng vợ gả chồng vào thời điểm này.

Ấy thế mà, giữa lúc đó, ở giữa cái xóm ngụ cư ấy, lại xảy lại một câu chuyện lạ khiến người ta phải bàn tán, có người thì vui mừng, có người thì thở dài xót xa, đó là chuyện anh cu Tràng lấy vợ. Thật là một sự kiện vừa lạ lùng lại éo le hết sức. Bởi trong cái bối cảnh run rủi kia, chẳng ai biết cái chết sẽ tìm đến mình và gia đình mình lúc nào, còn anh cu Tràng lại "rước" về một cô vợ. Nó vừa gây cho người ta sự thích thú nhưng cũng khiến người ta phải lo sợ cho số phận phía trước của gia đình Tràng.

Nói tình huống truyện Vợ nhặt lạ và éo le ở chỗ, lạ là anh cu Tràng lấy được vợ, éo le ở chỗ, anh ta lại lấy vợ vào lúc mà con người ta không muốn lấy nhất, lo lắng cho cuộc sống của mình nhất.

Vậy tại sao chuyện anh cu Tràng lấy được vợ lại khiến cho người khác phải ngạc nhiên, phải coi là chuyện lạ lùng đến thế? Đó là bởi vì Tràng hội tụ tất cả những yếu tố, những đặc điểm khó để có thể có một người vợ, đặc biệt là trong cái hoàn cảnh như hiện tại. Hắn không chỉ nghèo, sống giữa một "xóm ngụ cư", chỉ có một căn nhà lụp xụp vách lá với người mẹ già mà còn phải đi làm thuê, kéo thóc thuê cho người ta, "bữa đực bữa cái". Mà ở đời, người ta vẫn tránh nhất hai tiếng “ngụ cư”, bởi hai cái từ ấy đã nói lên cái khinh miệt, miệt thị đối với những người dân ngụ cư:

“Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao e phải lấy chồng ngụ cư?”

Cuộc sống giữa cái xóm ngụ cư nghèo ấy còn chẳng đủ đảm bảo cho hắn và mẹ già qua nổi cái nạn đói này, huống chi là phải gánh thêm một miệng ăn khác nữa. Không chỉ thế, hắn lại còn xấu xí và thô kệch, "cái đầu trọc nhẵn", "cái lưng to rộng như lưng gấu", "hai con mắt nhỏ tí", "bộ mặt thô kệch", "thân hình to lớn, vập vạp", …Ngoại hình thì thế, hắn còn thô lỗ và ăn nói cộc cằn nữa. Vậy nên, liệu với một ngoại hình như thế, một tính cách như thế, hắn có lấy nổi vợ với cái gia cảnh của mình chăng?

Mà không chỉ có vậy, điều quan trọng nhất trong thời điểm này đó là nạn đói đang diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám con người từng ngày, từng giờ "người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường". Với tất cả những đặc điểm trên, Tràng thực sự khó kiếm nổi một cô vợ cho mình mà cũng không nên lấy vợ ở thời điểm này. Bởi nếu hắn lấy vợ ở thời điểm này thì thật chẳng khác nào tai họa, chẳng khác gì "rước thêm của nợ đời", là "đèo bòng", đẩy chính hắn vào cái bi kịch của nạn đói nhanh hơn một bước.

Thế nhưng, cuộc đời chẳng biết được sự ngờ khi mà chính tại cái thời điểm không mong muốn nhất thì có một người phụ nữ đồng ý theo hắn về nhà làm vợ, và hắn có thể nghiễm nhiên trở thành một người đàn ông có vợ. Cái sự "có vợ" của hắn đến bất ngờ như một cơn mưa rào giữa trưa hè nóng nực. Bởi chỉ với một câu bông đùa trong lúc đang gò lưng kéo xe thóc lên dốc, khi hắn chứng kiến những người đàn bà ngồi bên lề đường mà “hắn đoán họ ngồi đấy để nhặt hạt rơi hạt vãi”. Đứng trước cái cảnh ấy, chẳng hiểu sao, Tràng lại hò lên một câu hò đầy tình tứ, chỉ để mà “chơi cho đỡ nhọc”: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”. Một câu hò tưởng chừng vô ý, ấy thế mà cô nàng lại “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Một cái cười “tít mắt” của Thị đã khiến cho Tràng phải “thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Đó là cái duyên cớ họ quen nhau, và cái câu hò ấy như là một cái lý do, một chiếc phao cứu sinh, một nhịp cầu dẫn đường cho họ đến với nhau. Và đúng như vậy, lần thứ hai gặp nhau, đó là khi Tràng đã trả hàng xong, ngồi uống nước thì Thị ở đâu chạy lại. Nếu như không có câu hò ấy làm dấu hiệu thì liệu Tràng có nhận ra người đàn bà “rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” kia là người đã cùng đẩy xe bò với mình hay chăng? Nhìn Thị chắc hẳn Tràng cũng hiểu, cái đói đã dày vò Thị, nhìn Thị, Thị đang là nạn nhân của cái đói mà nếu không có cái ăn, chỉ một vài ngày nữa thôi, Thị cũng sẽ giống như những người chết đói khác. Lúc đó, trong lòng Tràng bừng lên cái cảnh giác thương cảm đồng loại, và thế là Tràng quyết định mời Thị ăn: “muốn ăn gì thì ăn”. Câu nói đó như đánh trúng cái tâm lý của Thị, Thị chỉ đáp trả bằng một câu hời hợt “Ăn thật nhá, ừ thì ăn sợ gì”, và thế là Thị làm một chặp “bốn bát bánh đúc”. Nhìn Thị ăn, chắc hẳn có người sẽ nghĩ Thị là loại đàn bà con gái trơ trẽn, không có liêm sỉ, nhưng đặt mình vào hoàn cảnh của Thị thì mới hiểu, mới thương và xót xa cho Thị. Người ta tự hỏi cái gì đã khiến Thị mất đi lòng tự trọng, cái gì đã khiến cho Thị không màng tới liêm sỉ như thế? Chẳng phải đó là cái đói, cái chết hay sao? Bởi vậy, Thị đáng thương hơn là đáng trách, đáng tội nghiệp hơn là đáng phải chịu lời khinh bỉ. Xong bữa ăn, Thị vô từ “thở: Hà ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, một câu nói lịch sự vu vơ nhưng lại được Tràng đáp trả: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Một câu nói đùa của Tràng mà Thị làm thật, thế là trở thành một đôi vợ chồng. Cái đám cưới của Thị và Tràng vội vàng, nhanh chóng và đơn giản đến bất ngờ. Chẳng có cỗ bàn linh đình, chẳng mổ bò giết lợn, tất cả chỉ gói gọn trong bốn bát bánh đúc, vậy mới nói, chuyện anh cu Tràng lấy vợ là một chuyện lạ ở đời.

Có những người cho rằng, ở thời điểm đó, hắn nên từ chối, bởi người ta chẳng biết ngày mai ra sao, cái đói, cái chết có tìm đến mình hay không mà cưới vợ, thì hắn lại bỏ mặc tất cả với một tiếng "chặc lưỡi: "chặc, kệ!". Và thế là hắn có vợ, thế nhưng cái sự có vợ của hắn lại là một tình huống éo le nhất mà chúng ta từng đọc.

Bởi xưa nay, việc dựng vợ gả chồng luôn là việc hệ trọng bậc nhất, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của đời người. Mỗi khi nhắc đến việc cưới vợ cưới chồng, cả gia đình phải cùng nhau tính toán, không chỉ là lễ vật mà còn phải là ngày lành tháng tốt để rước dâu. Ấy vậy mà với Tràng, "giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy" thì hắn lấy vợ. Không có một tính toán, không có một lời dạm hỏi hay tình yêu, tất cả chỉ đơn giản bắt nguồn từ một câu nói đùa. Hạnh phúc lớn nhất đời người của Tràng được đổi bằng "bốn bát bánh đúc" nóng hổi khiến cho ai cũng phải bất ngờ và ngạc nhiên vô cùng. Cái hạnh phúc lớn nhất đời người kia tưởng phải vẹn tròn thì giờ đây bị chen ngang bởi cái đói, cái chết bởi nạn đói đang hoành hành dữ dội khắp nơi.

Nếu như xưa nay, vợ chồng đến với nhau không phải vì tình yêu thì cũng nhờ mai mối đưa đẩy, thì Tràng lại khác. Cái duyên đưa đẩy Tràng và Thị đến với nhau lại chính là cái đói. Chỉ với mấy bát bánh đúc, Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà để trở thành dâu con trong nhà. "Bốn bát bánh đúc" ấy đã thay cho mấy lễ trầu cau dẫn cưới, "ba bò chín trâu" lễ vật, một cái giá không thể có nếu như không phải nạn đói đang xảy ra, và khi đó, hiển nhiên, Tràng cũng chẳng thể lấy nổi với cái gia cảnh của mình.

Thế mới nói, Tràng lấy vợ đã trở thành một tình huống éo le bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, bởi hắn không chỉ lấy vợ trong bối cảnh đặc biệt: nạn đói và còn bởi duyên phận kéo vợ chồng hắn đến với nhau cũng là cái đói trong những năm tháng ấy. Đám cưới diễn ra nhanh chóng, cái cuộc đưa dâu cũng diễn ra chỉ vỏn vẹn có cô dâu và chú rể dắt díu nhau trở về căn nhà lụp xụp cuối xóm ngụ cư. Một đám cưới trên nền cái đám tang của dân tộc, của vô số những con người khác. Như những người khác nhìn vào, Tràng đã “liều”, hắn đang đánh cược số phận của mình với thần chết, bởi cái thời buổi này, nuôi thân còn khó chứ đừng nói chi “đèo bòng”. Và Thị nữa, Thị cũng thật "liều” khi nhắm mắt đưa chân theo một kẻ xa lạ. Đến khi nhìn thấy cái nhà của Tràng, Thị mới “nén một tiếng thở dài”, cũng đúng thôi, bởi Thị chắc hẳn thất vọng khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng, liệu nó có chứa chấp nổi cái thân của Thị hay chăng? Thế nhưng, lúc gặp Tràng, Thị đã cố bấu víu vào cái hi vọng cuối cùng để được sống, thế nên đành “nhắm mắt đưa chân”, hi vọng rằng Tràng sẽ bến đậu cho cuộc đời của Thị.

"Nhặt" được vợ, một câu chuyện tưởng chừng như cổ tích ấy lại diễn ra vô cùng chân thực trước mắt chúng ta, vậy những con người trong câu chuyện ấy đã phản ứng ra sao đối với việc Tràng lấy vợ?

Đầu tiên là phản ứng của những người dân trong xóm của Tràng, những người đầu tiên chứng kiến một cuộc đưa dâu kì lạ nhất trong đời mình. Họ chứng kiến vợ chồng Tràng kẻ trước người sau bước những bước chân trở về ngôi nhà mình, ngang qua những căn nhà cũng lụp xụp của họ. Và khi họ nhìn thấy người đàn bà bẽn lẽn phía sau lưng Tràng thì “họ đứng cả trong ngưỡng cả nhìn ra bàn tán”, bởi họ ngạc nhiên “người trong xóm lạ lắm”. Thế nhưng, nhìn thấy điều đó, dường như họ đã “hiểu được đôi phần”, và từ trong tâm những con người nghèo khổ ấy bừng lên một điều gì đó khiến “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Rồi những tiếng cười bùng lên, họ “cười lên rung rúc” như niềm vui bao ngày mới tìm lại được giữa một cuộc sống mà cái chết cứ rình rập họ từng ngày. Thế nhưng, có người vui cười, cũng có người hiểu cái tình cảnh hiện tại của họ, của Tràng, của Thị mà thở dài: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”, và rồi họ “nín lặng”. Cái lặng thinh trong không gian như ngấm vào trong tâm họ cả niềm vui và nỗi buồn, vui vì anh cu Tràng có vợ, họ chia sẻ với hắn niềm vui ấy, nhưng họ cũng lo cho hắn, lo cả sang cái cuộc sống mà cái đói, cái chết của vây hãm họ mỗi ngày này.

Còn đối với anh cu Tràng, lấy vợ - một chuyện đại sự cả đời lại xảy ra chỉ trong vài giờ ngắn ngủi, Tràng đi từ ngạc nhiên, bất ngờ tới nỗi sợ hãi rồi sau cùng là niềm vui, hạnh phúc. Hắn ngạc nhiên là bởi vì chỉ với một câu đùa với dăm ba bát bánh đúc mà Thị đã bằng lòng theo hắn trở về nhà. Bởi hắn hiểu hoàn cảnh của mình, hiểu rõ bản thân mình hơn ai hết, nhất là trong cái giai đoạn này, ai dám đặt cược bản thân mình vào một kẻ nghèo, xấu xí, sống giữa xóm ngụ cư như hắn chứ? Vậy nên, cái gật đầu bằng lòng của Thị đã khiến hắn bàng hoàng quá đỗi! Và tiếp sau đó là sự sợ hãi dâng lên trong lòng Tràng “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng, nỗi sợ hãi ấy dâng lên trong lòng Tràng chỉ vài tích tắc, bởi sau đó hắn đã “chặc lưỡi một cái: chặc, kệ!”. Giờ đây, hắn chỉ thấy bừng lên trong lòng mình niềm hạnh phúc, niềm vui khi có được một người vợ, có được hạnh phúc gia đình. Chẳng thế mà anh chàng “tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, nhìn nàng dâu mới “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, hắn càng vui sướng “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”, “hắn thích chí cười khanh khách”. Niềm vui sướng về hạnh phúc gia đình đã khiến hắn “hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên đi cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm hạnh phúc ấy đến với Tràng bất ngờ quá, nhanh chóng quá, giữa hoàn cảnh đói khát nhất, để đến khi tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau “hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.

Bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn con cái mình có được những điều tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất. Ai cũng vậy và bà cụ Tứ - mẹ Tràng cũng không phải ngoại lệ. Người mẹ già cũng mong muốn con trai mình có được một hạnh phúc nhỏ riêng mình, thế nhưng bà hiểu được hoàn cảnh của gia đình mình, hiểu được con trai bà, và hơn hết, hiểu được cái giai đoạn mà cái chết khủng khiếp đang gần kề thế này. Chính vì thế, khi Tràng dẫn người vợ mới trở về gian nhà ọp ẹp, tâm trạng bà mới đầy những cảm xúc khó tả.

Đầu tiên là sự ngạc nhiên, bà ngạc nhiên khi thấy Tràng đon đả hơn thường ngày, thái độ vồn vã của Tràng đã báo hiệu cho bà một linh cảm khác lạ. Và bà càng ngạc nhiên hơn khi nhìn vào trong nhà của mình lại thấy một người đàn bà khác đang đứng ngay trên “đầu giường của thằng con mình” và chào bà bằng u. Bà cụ băn khoăn tự hỏi chính bản thân mình “Ai thế nhỉ?”, bởi bà chưa từng nghĩ, đứa con trai của mình lại có thể có vợ giữa lúc tối tăm thế này. Thế rồi, bà nghe Tràng nói, bà “cúi đầu nín lặng”. Lòng người mẹ già nặng trĩu bao điều. Bà vui mừng bởi đứa con trai của bà nay đã có người bầu bạn vui cùng, thế nhưng, bà lại tủi phận cho cái kiếp nghèo đeo đuổi gia đình bà bao lâu nay “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi… Còn mình thì…”. Những nỗi lo âu giằng xé tâm can người mẹ già “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi đó dằn vặt tâm can bà, chất chứa nỗi hoang mang, chua xót cho số kiếp của mình, của những đứa con mình. Sự nghẹn ngào của bà, nỗi xót xa, sự ân hận khi không thể làm tròn được bổn phận của một người mẹ “năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!”. Thế nhưng, sau tất cả những dằn vặt, nghẹn ngào và ân hận ấy, là niềm vui mừng của bà dành cho đôi trẻ “u cũng mừng lòng”. Bà cũng truyền cho vợ chồng Tràng những niềm lạc quan, cái hi vọng bà gieo cho họ về một tương lai tươi sáng phía trước “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời cho khá…". Đó là tất cả tấm lòng của người mẹ già dành hết cuộc đời mình vì con vì cái.

Mỗi nhân vật ở trong câu chuyện đều có một tâm trạng, sự phản ứng khác nhau trong sự kiện Tràng lấy vợ. Ở đó có niềm vui, niềm hạnh phúc của Tràng khi khao khát hạnh phúc gia đình đã thành hiện thực, của bà cụ Tứ khi đứa con trai đã có người bầu bạn cùng, thế nhưng, cũng có những nỗi buồn, sự xót xa. Bởi Tràng lấy vợ giữa một hoàn cảnh đầy éo le, đầy những run rủi và bất trắc, bởi giữa cái nạn đói kia, kết hôn chính là “đèo bòng”, là “rước của nợ đời”, không biết có nuôi nổi không.

Tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm, đồng thời còn tạo điều kiện để nhà văn khai thác thế giới nội tâm của nhân vật một cách chân thực và sâu sắc nhất. Kim Lân đã khéo léo xây dựng một tình huống truyện đặc sắc, độc đáo bậc nhất nền văn học Việt Nam. Tình huống ấy không chỉ làm rõ cái tình cảnh thê thảm của những người dân ta trong nạn đói khủng khiếp 1945 mà còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những tăm tối trong số phận con người trước Cách mạng Tháng Tám 1945 nữa.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 2)

Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập " Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.

Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết.

Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mé bên bờ vực của cái chết. Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu Tràng có vợ.

Tràng có vợ là một truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư cho là ế vợ "hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Nhìn Tràng chẳng khác gì sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng mà có vợ, thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao.

Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội. Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ con Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những bụi cỏ dại " lổn nhổn ", thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:

Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư

Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ không có ý chòng ghẹo cô nào:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì

Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ai cười với hắn tình tứ như thế. Câu hò cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng bao giờ lịm tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao cứu sinh cứu vớt người chết đuối vì đói khát. Đôi khi nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn con người đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng:" Điêu! người thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị, Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi, kiếp đời trôi dạt như Thị thì biết đâu là bến bờ neo đậu:" Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường". Thị đích thực là người của cái thời:

Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi

Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị "thích ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa là Thị đã tìm thấy một nguồn sống: " ăn nhé"..."ăn thì ăn chứ sợ gì". Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói, cái chết? Vì sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản.

Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng:" Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao giờ đâu" hay Nguyễn Khải đã có lúc khẳng định " Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và hờn giận với chính bản thân mình". Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng thương, đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố", Tràng nói:" làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về", Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.

Tràng có vợ thực là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị cứ ngỡ như chỉ có trong chuyện cổ tích, vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới gì mà không một lễ nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới gì mà không một kẻ đón người đưa, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư chỉ có hai người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt, quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc, những tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều – cái liều của Tràng là ở thời buổi này nuôi thân mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật liều – Thị liều nhắm mắt đưa than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ.

Biết đâu hai cái lều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà,bước chân vào căn nhà rúm ró xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài ấy chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng có phải là cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng đon đả thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo Thị trơ trẽn nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất lòng tự trọng nữa, mà lúc này con người thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở mép giường trông nó chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy.

Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra mình đã có vợ rồi và chàng không hiểu vì sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy thế mà việc có vợ đối với Tràng dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp người mà sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận, bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :"liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không".

Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế". Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà còn có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con :"Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá" . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay nên buồn, không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh, sự sống hay là cái chết.

Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành công đó khiến truyện ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuyện “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 3)

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc. Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cánh ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.

Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn, ấy thế mà thành vợ thành chồng... Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.

Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !

Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 4)

Sự thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố đóng vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật và cách trần thuật, nhà văn có những điểm mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành công trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện đặc sắc. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.

Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm tư ti và những điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế mà hấp dẫn hơn. Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ. “... người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…”Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn Người thì “cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao ! đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thời này không ?”.

Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ, có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? “ Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”.

Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp bao! Điều này, bà cụ tứ sống gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không ?”.

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình có có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: “ ừ, thôi thì các con đã phải duyên kiếp với nhau, u cũng mừng ". Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...”. Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lí diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liều sau đó chặc lưỡi kệ !”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui ắt hẳn nỗi lo, đến nổi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc !”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ông mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được ngoài đường, xó chợ...

Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét lẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ... Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống vẫn hy vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có nhiệm với đời...

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì..”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên...”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...”

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi lại thực hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quý trong mỗi con người. Cái phần Người ấy sẽ giúp họ vượt qua đoạn khó khăn này. Sẽ lại thiếu sót nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống.

Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.

Có thể khẳng định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện độc đáo và chất nhân văn cao cả của tác phẩm.TOP 9 bài Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng 2023 SIÊU  HAY

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 5)

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân trở thành một gương mặt độc đáo, chứng tỏ quy luật thú vị: Sáng tác nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Kim Lân viết không nhiều, trong 50 năm lao động nghệ thuật, ông chỉ có hai tập truyện ngắn nhưng mỗi tác phẩm của ông ra đời luôn tạo được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Trong đó Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu nhất, hội vụ, kết tinh tài năng nghệ thuật của Kim Lân. Truyện ngắn này hấp dẫn người đọc ngay từ tình huống truyện độc đáo.

Truyện ngắn Vợ nhặt từng được nhiều người không ngần ngại gọi là kiệt tác, thần bút. Vợ nhặt có tiền thân và truyện Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Người Việt Nam ai đã từng sống qua năm 1945 chắc khó có thể quên nạn đói khủng khiếp cướp đi sinh mạng hai triệu đồng bào. Nếu Cách mạng tháng Tám là một cơn bão táp lịch sử lớn thì đứng trước cơn bão ấy dân tộc ta đã phải trải qua không khí ngột ngạt, cùng cực của cái đói. Đó chính là bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Vợ nhặt. Dựa trên nền hiện thực ấy Kim Lân đã sáng tạo tình huống truyện độc đáo để diễn tả niềm vui, hạnh phúc và khát vọng sống ở những người lao động nghèo khổ.

Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Nói như Nguyễn Minh Châu, “tình huống truyện là lát cắt, là khúc của đời sống nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”. Có thể nói tình huống là một môi trường để nhân vật bộc lộ sắc nét tính cách của mình. Trong truyện Vợ nhặt, đó là tình huống “nhặt” được vợ.

Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây tính cách và số phận của nhân vật, chủ đề tác phẩm được thể hiện rõ nét. Tính cách độc đáo, tình huống truyện mà Kim Lân sáng tạo nên ngay từ cái tên tác phẩm Vợ nhặt. Xưa nay lấy vợ lấy chồng luôn được xem là sự kiện hệ trọng của một đời người. Vậy mà Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về như nhặt một thứ rơi vãi ngoài đường. Một người đàn ông nghèo túng, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế mà được một người đàn bà tự nguyện theo về làm vợ hẳn hoi. Kỳ lạ hơn nữa là Tràng dám đem vợ về giữa những ngày đói kém, khi cái chết vì đói đang rình rập đe dọa. Kim Lân mở đầu truyện bằng một cuộc trở về đầy lạ lùng.

So với những lần trước thì lần trở về này chẳng có gì khác về thời gian, về con đường quanh co nhưng lần này Tràng mang một tâm trạng khác hẳn. Niềm khấp khởi trong lòng người đàn ông nghèo khổ được vợ ấy toát lên nơi gương mặt, ánh mắt: “mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Phút chống Tràng quên hết đòi khổ ê chề trước mắt mà chỉ thấy tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Phải thấu hiểu và trân trọng niềm hạnh phúc ở người dân nghèo khổ đến chừng nào mới diễn tả được cảm giác này “một cái gì mới mẻ lạ lẫm mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.

Sự xuất hiện của người đàn bà ấy đã khuấy động lên cái không khí tối sầm của xóm ngụ cư nghèo khổ. Bọn trẻ con chạy theo trêu Tràng, còn người lớn thì xôn xao bàn tán. Thoạt đầu họ nghĩ là bà con Tràng nhưng rồi dáng vẻ e thẹn, ngượng ngùng của người đàn bà đã mách người ta về sự thực. Một lúc sau bỗng có tiếng cười lên rung rúc “Hay là vợ anh cu Tràng” Ừ khéo là vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Kim Lân đã quan sát tài tình một tình huống thú vị và diễn tả nó đúng bằng lời ăn tiếng nói của người quê. Sự xuất hiện của người đàn bà lạ khiến mọi người xóm ngụ cư ngạc nhiên đã đành, thú vị hơn nữa là chính Tràng cũng ngạc nhiên. Người trong cuộc, người đã dẫn vợ về mà cứ ngạc nhiên với việc mình đã có vợ. Khi đã đem người đàn bà vào nhà nhìn thị ngó ngoáy giữa nhà mình mà Tràng cứ đi ra đi vào suy nghĩ vẩn vơ. “Ra hắn có vợ rồi đấy ư? Hà!”. Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ “tầm phơ tầm phào”, đâu có hai bạn ấy thế mà thành vợ thành chồng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ Tràng đâu đã được một người con gái nào để ý đến.

Thậm chí đến sáng hôm sau ngày có vợ Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Buổi sáng ấy, Tràng trở dậy muộn hơn, trong người cảm thấy lửng lơ êm ái như vừa trong giấc mơ đi ra. “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Người đàn ông nghèo khổ ấy chưa thể thích ứng với niềm vui khá mới mẻ, với bước ngoặt quá đột ngột trong đời mình.

Tại sao có sự việc lạ lùng trên, có những sự ngạc nhiên ấy? Như thể giải đáp cho người đọc, Kim Lân ngược dòng thời gian hai lần tầm phơ tầm phào mà nên vợ nên chồng. Ở đây, chúng ta được chứng kiến nghệ thuật đảo ngược trình tự thời gian của Kim Lân. Chuyện Tràng có được vợ thật buồn cười, chỉ hai lần tình cờ gặp gỡ, chỉ mấy câu nửa đùa nửa thật mà người đàn bà nọ bám lấy Tràng, đã sẵn sàng trao gửi cuộc đời mình nơi Tràng. Nhưng nghĩ ra ta thấy thị còn biết bám vào đâu nữa. Dân gian có câu Chết đuối bám phải cọc thì chính là là tình cảm của người phụ nữ này. Đằng sau tiếng cười, người đọc nhận ra một sự thật xót xa, đó chính là cái đói và chỉ có cái đói khủng khiếp là tác nhân duy nhất để đẩy hai con người ấy lại gần nhau rồi nên vợ nên chồng.

Đây chẳng có màu sắc của tình yêu hay tình nghĩa, chỉ hai lần gặp gỡ mà người đàn bà nọ biến đổi khác hẳn. Lần trước thì còn lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, còn liếc mắt cười tít khiến chàng sung sướng lắm. Nhưng lần sau vừa thấy Tràng đang uống nước ở cổng chợ tỉnh thì thị từ đâu sầm sầm chạy đến rồi sưng sỉa trách móc. Cái đói đã làm thị tiều tụy, hốc hác khiến Tràng chưa thể nhận ra “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi. Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy còn hai con mắt”. Khi được mời ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng rực lên. Thị sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.

Quả là cái đói khiến con người ta mất hết thể hiện, quên hết tình tứ. Chính từ đấy ta nhận ra một phần giá trị hiện thực lớn lao của truyện ngắn Vợ nhặt. Câu chuyện của người phụ nữ này sống dậy thảm cảnh đói năm 1945 mà dân tộc ta đã phải gánh chịu. Cũng từ đây chúng ta hiểu vì sao Kim Lân không đặt cho người vợ nhặt của Tràng một cái tên riêng mà lại dùng đại từ chung là “thị”. Nào cần một cái tên riêng cho thân phận người phụ nữ này vì ở thị có bóng dáng của bao người phụ nữ lúc bấy giờ. Không biết bao nhiêu người vì cái đói vì sự sinh tồn cũng đành cư xử như thị. Trong thảm cảnh ấy, thị không hơn gì một cái rơm, cái rác mà người ta có thể nhặt được ở nơi đầu đường xó chợ.

Phải chăng đó là ý nghĩa tiêu biểu, điển hình của nhân vật. Dẫu sao chuyện nên vợ nên chồng cũng đã thành sự thật. Trở về hiện tại, người đọc chúng ta lại đứng trước sự chờ đợi mới “liệu bà cụ Tứ có chấp nhận người vợ nhặt của Tràng không?”. Cuộc sống của gia đình này rồi đây sẽ ra sao, mọi người cư xử với nhau như thế nào. Kim Lân đã đặt các nhân vật của mình vào tình huống thử thách éo le để khám phá vẻ đẹp của tình huống, của khát vọng hạnh phúc. Ở đây là rách ít đùm rách nhiều. Ngay mẹ con Tràng cũng đang lo lắng với miếng ăn, chuyện cái chết vì đói đe dọa. Vậy mà họ vẫn sẵn sàng che chở, cưu mang người đàn bà ấy.

Bà cụ Tứ vui vẻ chấp nhận người con dâu, ai ủi, động viên vợ chồng Tràng chịu khó bảo nhau mà làm ăn. Buổi tối ấy ngọn đèn dầu được thắp lên trong căn nhà lạnh lẽo, tăm tối bấy lâu nay. Ánh sáng của ngọn đèn hay chính là ánh sáng của niềm vui mang đến với những con người nghèo khổ. Từ tình huống này, Kim Lân đã khẳng định được rằng những người đó không hướng đến cái chết mà chỉ hướng đến sự sống, dù phải ở hoàn cảnh đói khổ nghiệt ngã đến mấy người dân lao động vẫn biết vui với những gì mình đang có, vẫn lấp lánh niềm tin vào tương lai.

Thiên truyện khép lại bằng hình ảnh Tràng ngồi tư lự nhớ đến Việt Minh. Trong đầu Tràng vẫn thấy hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Vậy là Kim Lân đã mở ra trước mắt các nhân vật của mình dự cảm về sự đấu tranh, về sự đổi đời. Không biết bà cụ Tứ, không biết vợ chồng Tràng có vượt qua nổi cơn đói mà sống đến ngày cách mạng thành công hay không? Dẫu sao khép lại trang cuối cùng của truyện ngắn Vợ nhặt người đọc vẫn mong, vẫn tin rằng họ sẽ là một trong số những người góp phần làm nên cơn bão táp Cách mạng tháng Tám.

Là hạt nhân của cấu trúc thể loại, tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất quan trọng giúp nhà văn dựng được chân dung nhân vật một cách sắc nét đồng thời thể hiện được tự nhiên, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn Vợ nhặt, chúng ta bắt gặp một cái nhìn ưu ái của người lao động, một ngòi bút tài hoa khi dựng tình huống, khi tả cảnh, tả người, Kim Lân cứ dẫn người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Vợ nhặt gồm nhiều tình huống được thay đổi linh hoạt nhờ sự tổ chức nghệ thuật của nhà văn. Bởi thế đây là tác phẩm đa dạng đan xen nhiều màu sắc thẩm mỹ. Ở đây có đen tối nghiệt ngã khác thường mà cũng tươi sáng lấp lánh lạc quan, vừa hài mà cũng vừa bi. Nói cách khác, đây là câu chuyện cười ra nước mắt để người đọc thấm thía hơn cái nghèo, cái đói và niềm vui sống đáng quý của người dân lao động.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 6)

Nạn đói năm 45 dường như đã trở thành một nỗi ám ảnh sâu sắc đối dân tộc ta. Nỗi đau thương ấy đâu chỉ được diễn tả bằng lời mà nó còn được in dấu trong từng câu văn, từng trang giấy của các nhà thơ, nhà văn. Đó có thể là Chí Phèo của nhà văn Nam Cao hay Chị Dậu của Ngô Tất Tố và trong số đó không thể nào thiếu được truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân. Đó được coi là một trong những tác phẩm có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc. Trong tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, với những diễn biến thăng trầm nhằm khắc tả được thành công nội dung của truyện ngắn và thông qua đó làm nổi bật lên được tình hình chung của đất nước trong những năm kháng chiến đầy gian khổ đó.

Để làm nên thành công của một tác phẩm không chỉ cần nhà văn viết hay, viết tài, nội dung phong phú mà hơn thể nữa tác phẩm phải cần một tình huống truyện tài tình. Và cũng như vậy, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công đã làm nên một tình huống truyện như thế, và nó đã được thể hiện ở ngay trong chính tiêu đề của tác phẩm: Vợ nhặt. Từ trước đến ngay, người ta nhặt đồ, nhặt nhạnh, lượm lặt chứ ai lại đi nhặt người và thậm chí là nhặt vợ? Vợ là người sẽ chung sống và đồng cam cộng khổ với ta, vợ phải là người được cưới hỏi đàng hoàng, chứ làm gì có ai lại đi nhặt vợ? Nhưng đặt trong bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945, thì những người dân thường, những người bán mặt cho đất bán lưng cho trời may lắm thì mới có thể thoát khỏi được bàn tay tử thần, ấy thế mà “sống là tốt rồi, tự nuôi được mình là tốt lắm rồi chứ còn ai có cái suy nghĩ lấy vợ”. Ấy thế mà anh cu Tràng – cái anh chàng hiền lành, tử tế, nhưng lại quá nghèo mà không thể lấy được vợ lại nhặt được vợ, đó quả là một điều thật là lạ. Cũng bởi vì sống trong cái hoàn cảnh đó thì cái giá trị của con người lại càng trở nên rẻ rúng, người ta cũng chỉ vì 1 bát bánh đúc mà lấy được vợ.

Nhà văn Kim Lân với quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, đã tạo ra một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn thu hút người đọc và hơn thế nữa là một nội dung truyện mang tính hiện thực nhưng cũng mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Cái thú của câu chuyện là chuyện anh cu Tràng trong cái tình huống trớ trêu đã nhặt được vợ như là một nghịch lý. Nếu nói trong thực tế thì việc Tràng có vợ cũng bởi vì người vợ “mới: của Tràng hơi ham sống, chứ không chỉ vì 4 bát bánh đúc mà anh Tràng đã “hào phóng” tặng cho “nàng”. Cái chuyện mà nghịch lý, khiến ai ai cũng đều phải bất ngờ nhưng thực chất thì nó lại rất phù hợp với quy luật của cuộc sống. Bởi trong những tình huống khó khăn nhất, bần cùng nhất thì cái nhân cách của con người ta cũng trở nên rẻ rúng hơn bao giờ hết. Không phải vì con người ta ngay từ khi sinh ra đã có bản chất như vậy mà do thực tại, do cái xã hội này đã tác động và đẩy con người ta vào những tình huống khiến chính họ cũng không thể nào nghĩ được cái bản chất của mình đã bị “tha hóa” đến như vậy. Bởi vậy mà việc Tràng có vợ không còn chỉ là niềm vui mà hơn thế nữa nó còn là một nỗi đau , một sự thương cảm cho chính thân phận của con người.

Để tạo nên nét độc đáo cho câu chuyện, nhà văn đã xây dựng một khung cảnh thật ảm đạm, đầy thê lương của làng quê Việt Nam khi xảy ra nạn đói. Những người nông dân sống trong cái xã hội ấy, người nào người ấy trông cũng hốc hác, u tối. Đó là những gia đình: “những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như bóng ma”; bóng người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Cũng chỉ bằng những chi tiết miêu tả đơn giản, nhà văn đã cho người đọc cảm nhận được về cái thời nghèo đói, cái thời mà đến nhân cách của con người cũng bị tha hóa, cái thời mà mạng sống của con người bị rẻ rúm, khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ mong manh như tờ giấy. Cũng chính bởi nhà văn đưa ra tình huống truyện như vậy đã khiến cho người đọc thấm thía được sự tăm tối, đau đớn của một thời.

Nhà văn không xây dựng trong truyện một cuộc sống như mơ hay cố vẽ ra một viễn cảnh ảo mộng mà ngược lại, nhà văn không hề né tránh mà lại săn đuổi hiện thực tới cùng. Nhưng mục đích chính của nhà văn, làm từ chính hiện thực đó để có thể làm sáng tỏ vẻ đẹp trong lòng con người – cái vẻ đẹp mà tưởng chừng như đã bị sự nghèo đói làm cho tha hóa. Nhưng không, chính cái hiện thực ấy lại là một phép đòn bẩy cho tình yêu và tâm hồn của con người trở nên sáng rực hơn lúc nào hết.

Tình huống độc đáo thứ nhất của truyện, chính là khi nhà văn cho Tràng nhặt được vợ. Cũng chính từ lúc đó, nhà văn Kim Lân đã gieo cho những con người một tia hy vọng, dù là một tia hy vọng mong manh nhất. Ấy là trước khi Tràng nhặt được vợ, cái xóm nghèo thê lương là thế: trẻ con thì ngồi rũ rượi 1 góc không thèm nhúc nhích, ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường,… thế nhưng từ khi Tràng nhặt được vợ thì mọi thứ dường như đã thay đổi hẳn, cái xóm ngụ cư nghèo ấy dường như đã được thổi một làn gió mới, một tia hy vọng mới. Xóm ngụ cư lấy từ chỗ chả ai nói với nhau câu nào cho đến khi mọi người bàn tán xôn xao chuyện Tràng lấy được vợ. Ai nấy cũng đều cảm giác tò mò, nhưng sâu thẳm trong trái tim của họ lại lóe lên một tia hy vọng sống, một tia hy vọng cho một tương lai mới.

Niềm hạnh phúc của con người đến nhanh lắm, nó nhỏ bé nhưng lại có thể nhanh chóng làm con người ta quên hết những ê chề, mệt mỏi, nó dường như không chân thực lắm mà đôi khi còn khiến con người ta lơ lửng như đi ra từ giấc mơ. Chính vì thế mà khi đi bên cạnh người vợ mới nhặt về, Tràng dường như đã quên hết tất cả cái cuộc sống ê chề, tăm tối hàng ngày và thậm chí còn quên ngay cả cái nạn đói đang đeo bám con người ta hằng ngày. Hóa ra, nhà văn đã hóa thân vào trong tác phẩm để có thể gửi gắm đến nhân vật của mình cái tình cái nghĩa đậm đà, sâu sắc. Hạnh phúc của Tràng được xây dựng trên cái tình, cái nghĩa. Đó là tình yêu thương giữa con người với con người trong cơn khó khăn, hoạn nạn, là cái nghĩ của một người mang hàm ơn – trong cái lúc quẫn cùng ấy lại có một người tự dang rộng vòng tay để mình bấu víu, nương tựa. Cũng chính bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công sức sống mãnh liệt của tình cảm con người thiêng liêng mà bất diệt ấy để cùng nhau vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lúc trở về nhà, cái niềm vui sướng, hạnh phúc ấy đã đã vơi đi muôn phần mà thay vào đó là Tràng đã trở về với hiện thực, trở về với cái nghèo, với nỗi lo về sự không chấp thuận của mẹ. Nhưng, lo lắng là thế nhưng cái niềm hạnh phúc trong anh nào có biến mất, mà ngược lại, nó vẫn ở đó, vẹn nguyên như lúc ban đầu. Niềm vui của anh cũng đã làm cho cả căn nhà vẫn im lìm là vậy mà bỗng nhiên sáng bừng sức sống. Bởi từ đây, Tràng đã nhận ra rằng: sau những ngày dài làm lụng vất vả sẽ vẫn luôn có người chờ đợi mình ở nhà, giờ đây, mọi niềm vui, nỗi buồn của anh đều sẽ có một người bạn để san sẻ, yêu thương.

Nhà văn đâu chỉ cho Tràng được thay đổi, mà ngược lại, qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi, tưởng chừng như trêu đùa đã khiến hai con người ấy nên duyên vợ chồng. Thị chỉ là một người cong cớn, chỏng lỏn, chỉ biết quan tâm đến miếng ăn mà giờ đây lại trở thành vợ của người ta, chóng vánh là thế. Ấy vậy mà khi về đến nhà Tràng, khi đã trở thành dâu nhà người ta, thì thị lại trở nên nhẹ nhàng và e lệ là thế. Đọc đến đây, ắt hẳn nhà văn muốn người đọc phải tự hỏi: Cái chỏng lỏn, cong cớn kia đâu mất rồi? để giờ đây, đến chính người đọc còn thấy người vợ Tràng mới mang về lại là một người đàn bà hiền lành, đầy ý tứ và rất lễ phép với mẹ Tràng – bà cụ Tứ khi mới nói: “U đã về đấy ạ!” – Chỉ bằng một lời nói, một hành động, nhà văn đã khiến người đọc hiểu rằng người đàn bà ấy đã trở thành một người con dâu thực sự, biết lắng nghe những sự khuyên dạy của mẹ chồng.

Nếu tưởng như đã người vợ ấy chỉ “làm bộ” như vậy thì đến sáng hôm sau, mọi thứ như một câu trả lời thích đáng nhất. Mới sáng sớm, nàng dâu mới đã tất bật dọn dẹp, sắp xếp lại gia đình – đó chỉ là những thay đổi tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng thấm thía đối với cả Tràng và bà cụ Tứ. Và cứ như thế, cuộc sống gia đình, niềm hạnh phúc cũng đã làm thay đổi thị, thay đổi tính cách và cả số phận của thị nữa.

Kim Lân đã cố tình đặt nhân vật người vợ vào tình huống éo le như vậy để có thể nhấn mạnh rằng: “ Cái đó có lúc sẽ làm cho con người ta trở nên hèn mọn, yếu kém, nhưng đôi khi nó sẽ không làm lu mờ hay khiến con người ta trở nên vô nhân cách mà sau cùng thì con người vẫn luôn quay trở lại với những gì vốn có của riêng mình”.

Trong nội dung của cốt truyện ấy, nhà văn còn khéo léo đưa diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Khi bà cụ Tứ mới về nhà, bà thấy một người đàn bà trẻ đang ngồi trong nhà cùng con trai của mình. Hàng loạt những câu hỏi dường như ùa về trong bà: “Người đàn bà đó là ai?, Sao lại chào mình bằng u?,…” Để rồi sau tất cả đó, là một tiếng “À”. Bà đã hiểu ra tất cả, bà lặng im không nói. Sự không không nói gì của bà, không phải là sự không đồng ý mà ngược lại bà lại thấy xót xa cho số phận của Tràng và người con dâu mới của mình. Rồi bà lại tự trách mình, bà trách mình vì nghèo quá, mà không có đủ tiền để làm cho con mình một cái đám cưới, bà tự trách mình đã không thể làm tròn được bổn phận của mình. Nhưng dù gì thì bây giờ bà cũng chỉ biết vui thay cho niềm hạnh phúc của hai con mình.

Cảm động biết bao khi kết thúc câu chuyện bằng hình ảnh nồi cháo cám – đó là món ngon từ tinh thần chứ không phải là về vật chất. Cái đắng, cái chát của cháo cám đã được tình yêu thương của bà cụ Tứ lấp đầy. Nhưng ẩn trong nụ cười của bà cụ Tứ ấy luôn ẩn chứa một nỗi lo: Bà lo cho cuộc sống trước mắt của hai đứa con của mình, làm sao để có thể sống cho qua những ngày tháng mà cái đói, cái nghèo luôn cứ đeo bám cuộc sống của gia đình bà. Phải chăng cái đắng chát và nghẹn bứ của nồi cháo cám cứ thế mà quẩn quanh trong cuộc sống của gia đình bà và ngay cả đối với những người dân sống trong xóm ngụ cư?”.

Chỉ bằng một tình huống Tràng nhặt được vợ mà dường như đã làm nổi bật lên cái nhân đạo của nhà văn. Nó không chỉ giúp xóm ngụ cư ấy xóa tan đi cảnh thê lương, ảm đạm vốn có mà còn giúp cho nhân vật “nên người”. Giúp cho Tràng hiểu được lẽ sống, nhìn thấy được lá cờ đỏ sao vàng như chiếu rọi vào tim. Và cho đến cùng, chỉ là hình ảnh chiếc lá cờ tung bay đã làm Tràng mập mờ hiểu được rõ con đường mà mình sẽ chọn, sẽ hướng tới: đó là theo Cách Mạng. Và chỉ có Cách mạng mới có thể giúp cuộc sống của những người dân như Tràng, như những người dân nơi xóm ngụ cư này mới bớt cơ cực và có thể tìm lại ánh sáng.

Thành công của nhà văn Kim Lân là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý tinh tế của con người. Họ nghèo ấy, họ khổ như thế ấy nhưng họ lại biết vươn lên trong mọi hoàn cảnh để biết yêu thương nhau, để biết khao khát hạnh phúc và để có thể tin tưởng vào tương lai. Chính nhà văn Kim Lân đã làm nên cái hồn của câu chuyện, để có thể tạo nên giá trị sâu sắc và cảm động cho tác phẩm Vợ nhặt này.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 7)

Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.

Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về. Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.

“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Bà cụ Tứ hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”

Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không?”

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, Mà con mình mới có vợ được…”

Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ trong giấc ma di ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ… Tác giả “Vợ nhặt” quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối, day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của con người đã có lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tý của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!

Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm của mùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 8)

Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm bật nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tư tưởng, tính cách của các nhân vật và chủ đề của tác phẩm là một điều có ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ được tổ chức chung quanh một tình huống như thế, và Vợ nhặt của Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.

Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình huống nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), giữa lúc đói khát lại lấy được vợ. Đó là một điều lạ. Lạ vì hai lí do. Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng, nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ!

Nhưng điều tưởng không thể nào có được, lại đã xảy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi vì, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. Và đây là “vợ nhặt”, có cần choe cưới gì đâu. Năm đói thế nào cũng xong, có thế người như Tràng mới lấy được vợ.

Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm cư ngụ, của bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện có thể triển khai, phát triển dễ dàng bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dẫn: Cảnh xóm ngụ cư xì xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà.

Cảnh buổi tối bà cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này đến sự ngạc nhiên khác,.. Chuyện có vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh ta không thể nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết và ngay cả sáng hôm sau khi đã là vợ chồng (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”). Tình huống trên, đồng thời hết sức éo le. Đó là chuyện nên vui hay nên buồn nên mừng hay nên lo?

Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể khắc họa tâm trạng nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái tình huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ ở trong tâm trạng của mọi người: Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ta và cũng lo cho anh ta. Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con.

Chính Tràng cũng vừa vui vừa “trợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Tình huống trên dẫn đến cái hạnh phúc thật mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của vợ chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới (“Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”). Hạnh phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy.

Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà không dám nhìn nhau… Tình huống đó đã tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo chi tiết để nhà văn có thể viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện thực và cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.

Tình huống “Vợ nhặt” độc đáo và hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Tình huống ây không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai và phát triển dễ dàng, tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay trong trận đói khủng khiếp nhất.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 9)

Vợ nhặt của Kim Lân được khai thác từ đề tài nạn đói năm 1945 nhưng cái đọng lại sau cùng của người đọc về tác phẩm không phải là ám ảnh về cái chết, sự mất mát mà là ánh sáng ấm áp của tình người. Đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành, đẹp đẽ nhất, đúng như Nguyễn Khải đã từng viết “ sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hi sinh”. Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, tác giả Kim Lân trong Vợ nhặt không chỉ thu hút được sự quan tâm, kích thích sự tò mò, khám phá của độc giả mà qua đó còn thể hiện được bao quan điểm nhân sinh sâu sắc.

Tình huống truyện được hiểu là những diễn biến, sự kiện đặc biệt, phức tạp. Tình huống truyện càng độc đáo thì câu chuyện càng hấp dẫn. Trong truyện ngắn vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng được tình huống vừa lạ lùng, vừa éo le, một tình huống mang đến cho những người xung quanh câu chuyện bất ngờ, ngạc nhiên cùng bao cảm xúc phức tạp.

Tràng là chàng trai nghèo xấu xí, dáng người thô kệch với “hai mắt hí gà gà vào bóng chiều, bộ mặt thô kệch, lưng to bè như lưng gấu”. Tràng sinh sống cùng mẹ trong một ngôi nhà lụp xụp xóm ngụ cư. Có thể nói với điều kiện của anh Tràng thì khó có thể lấy được vợ trong hoàn cảnh bình thường, càng bất khả thi hơn khi nạn đói xảy ra. Thế nhưng trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, trong đó có cả người trong cuộc là Tràng, Tràng đã có vợ, nói đúng hơn là “nhặt” được vợ trong lúc nạn đói diễn ra khủng khiếp nhất.

Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân Tình huống nhặt được vợ của anh Tràng là tình huống lạ lùng nhưng không kém phần éo le, trái ngang, khi sự việc diễn ra người dân xóm ngụ cư không biết nên mừng cho anh Tràng hay buồn vì sự kiện ý nghĩa nhất của đời người lại diễn ra trong khung cảnh đói khát, liệu hạnh phúc ấy có được lâu bền hay không. Ngay bản thân bà cụ Tứ khi biết con trai có vợ cũng trải qua những cảm xúc vô cùng phức tạp, từ ngạc nhiên lo lắng, vui mừng cho hạnh phúc của con, buồn tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con.

Cảnh đám cưới của Tràng và chị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng, sự kiện hạnh phúc có ý nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra trong không khí ngột ngạt, u tối bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống và cái chết chỉ cách biệt bởi ranh giới vô cùng mỏng manh. Tình huống để Tràng và người vợ nhặt quen biết rồi đi đến quyết định gắn bó cả đời với nhau cũng chỉ là những câu nói đùa vu vơ, vài bát bánh đúc. Hoàn cảnh gặp mặt có phần hài hước, lạ lùng ấy lại là nút thắt quan trọng gắn kết giữa hai con người, từ những người xa lạ họ đã gắn kết với nhau bởi mối quan hệ đặc biệt. Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tuy có thiếu thốn về vật chất nhưng cả Tràng và người vợ nhặt đều có chung khao khát hạnh phúc, có niềm tin vào cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.

Trong tình huống độc đáo, ấn tượng ấy người đọc còn ấn tượng bởi tâm trạng của những người dân xóm ngụ cư và của chính bản thân Tràng. Những người dân xóm ngụ cư đã quen nhìn Tràng là một chàng trai xấu xí với nụ cười hềnh hệch, chàng trai nghèo mà xấu xí ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại có vợ trong tình huống không ai ngờ đến nhất. Nhìn người đàn bà e thẹn, rón rén đi sau Tràng mọi người đều vô cùng ngạc nhiên “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính sự kiện lạ lùng ấy đã mang đến một không khí tươi mát, lạ lùng vào không khí u ám vì đói khát làm cho cuộc sống của những người dân nghèo ấy có phần đổi khác so với thường ngày.

Tuy nhiên, những người dân xóm ngụ cư cũng tỏ thái độ lo lắng cho tương lai của Tràng và người vợ nhặt “ giời đất này còn rước cái của nợ….qua được cái thì này không?” Tràng là người trong cuộc nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì tình huống “nhặt vợ” đầy lạ lùng của mình. Khi người vợ nhặt về nhà, ngồi ở đầu giường Tràng vẫn ngỡ như đang trong cơn mơ “ bây giờ hắn đá có vợ rồi đó ư?” Chi tiết này thể hiện cái éo le của hoàn cảnh, anh Tràng là người dân nghèo khổ nên ngay cả khi hạnh phúc đến vẫn không dám tin vào thực tại.

Bà cụ Tứ nhìn người đàn bà lạ ngồi trên giường lại chào mình bằng “u” bà đã rất bất ngờ, hấp hãy đôi mắt nhìn cho kĩ, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nạn đói đã cướp đi sự nhạy cảm, tinh tế của người mẹ khi có con trong độ tuổi lập gia đình.

Như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện được không khí đói khát, chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả đã làm nổi bật lên ánh sáng của tình người, làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp ở những người dân nghèo khổ.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 10)

Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.

Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.

“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”

Bà cụ Tứ hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”

Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không?”

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, Mà con mình mới có vợ được…”

Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ trong giấc ma di ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ…

Tác giả “Vợ nhạt” quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối, day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của con người đã cd lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tý của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao!

Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm vớimùi khói,khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời…

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 11)

Sự thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong yếu tố đóng vai trò then chốt là: tình huống, nhân vật và cách trần thuật, nhà văn có những điểm mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm mình. Kim Lân đã rất thành công trong các truyện ngắn của mình khi sáng tác được những tình huống truyện đặc sắc. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân ta cảm rõ điều đó.

Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu sắc tính cách và tâm lí nhân vật. Đồng thời gúp ông bộc lộ tâm tư ti và những điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện cũng thế mà hấp dẫn hơn.

Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về.

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi trường trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ.

“… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…”Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn Người thì “cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao ! đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thời này không ?”.

Bà cụ Tứ hiểu tình cảm con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ, có người đàn bà đứng ngay ở đầy giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? “ Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì vợ nuôi con?

Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”.

Đúng là một tình huống lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp bao! Điều này, bà cụ tứ sống gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiều cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhem của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không ?”.

Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình có có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: “ ừ, thôi thì các con đã phải duyên kiếp với nhau, u cũng mừng “. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lí diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liều sau đó chặc lưỡi kệ !”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nổi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc !”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ông mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được ngoài đường, xó chợ…

Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét lẹt của những đống rấm nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống vẫn hi vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia xẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có nhiệm với đời…

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đâu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa.

Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì..”. Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai bà đã yên bề gia thất: “Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…”. Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:

“Tràng ạ. Khi nào có liền ta mua lấy đôi gà. Tau tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảng đi ngoảng lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”

Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi lại thực hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần Người đáng quý trong mỗi con người. Cái phần Người ấy sẽ giúp họ vượt qua đoạn khó khăn này.

Sẽ lại thiếu sót nêu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kể hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu” bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.

Có thể khẳng định, truyện ngắn Vợ nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông cũng là đỉnh cao của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Người đọc nhớ mãi một Vợ nhặt với tình huống truyện độc đáo và chất nhân văn cao cả của tác phẩm.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 12)

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống ép le, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh : anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng : Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng : Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo : Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ : Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn : biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn : Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ? Hà ! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 13)

Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai của cuộc sống con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập ” Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.

Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi thê thiết. Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng – đó là việc anh cu Tràng có vợ.

Tràng có vợ là một truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư cho là ế vợ “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch”. Nhìn Tràng chẳng khắc gì sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng mà có vợ, thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao. Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội. Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ còn Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những búi cỏ dại ” lổn nhổn “, thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi , là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết đang rình rập bủa vây. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945. Đã nghèo, Tràng lại còn mang thân phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp, bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu vào tiềm thức đến mức trở thành lời truyền miệng:

Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư

Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ không có ý chòng gẹo cô nào:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì

Chẳng hiểu sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến như vậy. Dẫu biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ai cười với hắn tình tứ như thế. Câu hò cất lên giữa ngày đói khát sẽ chẳng bao giờ lịm tắt mà luôn để lại dư vang, biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao cứu sinh cứu vớt người chết đuối vì đói khát. Đôi khi nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn con người đến với nhau. Quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng:” Điêu! người thế mà điêu”. Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị, Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi, kiếp đời trôi dạt như
Thị thì biết đâu là bến bờ neo đậu:” Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”. Thị đích thực là người của cái thời:

Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi

Nhìn Thị tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy, hắn sẵn sàng đãi Thị “thích ăn gì thì ăn”, nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, nghĩa là Thị đã tìm thấy một nguồn sống: ” ăn nhé”…”ăn thì ăn chứ sợ gì”. Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói, cái chết? Vì sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản. Đã có bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng:” Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao giờ đâu” hay Nguyễn Khải đã có lúc khẳng định ” Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống cho dù phải sống táo bạo, sống ghen tị với mọi người và hờn giận với chính bản thân mình”. Thật vậy, hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng thương, đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói “hà, ngon”, “về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, Tràng nói:” làm đếch gì có vợ. Này nói đừa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”, Tràng cứ nghĩ mình nói đùa, ai ngờ Thị về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.

Tràng có vợ thực là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị cứ ngỡ như chỉ có trong chuyện cổ tích, vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đám cưới gì mà không một lễ nghi dạm hỏi? chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới gì mà không một kẻ đón người đưa, thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư chỉ có hai người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt, quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc, những tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cõi chết. Tràng thật liều – cái liều của Tràng là ở thời buổi này nuôi than mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật liều – Thị liều nhắm mắt đưa than, theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ. Biết đâu hai cái liều hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà,bước chân vào căn nhà rúm ró xiêu vẹo, quần áo, niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài ấy chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng có phải là cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng đon đả thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo Thị trơ trẽn nữa, ai dám bảo Thị đánh rơi mất long tự trọng nữa, mà lúc này con người thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở mép giường trông nó chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy. Còn Tràng nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra mình đã có vợ rồi và chàng không hiểu vì sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn” ấy thế mà việc có vợ đối với Tràng dễ như trở bàn tay, như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp người mà sao Thị tội nghiệp đến vậy, nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu.Tâm trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận, bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :”liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà còn có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con :”Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá” . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng; hành động “nén một tiếng thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh nhà chồng; sự nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay nên buồn, không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh, sự sống hay là cái chết.
Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Có thể nói, ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy độc đáo, bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành công đó khiến truỵên ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy, rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 14)

Đọc Vợ nhặt chợt tôi nao lòng nhớ đến Đám cưới nghèo của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độc đáo và hấp dẫn. Ngay tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành lời. Nhặt vợ, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:

“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay”

Vậy mà ở đây Tràng đã “nhặt” được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp đang hoành hành. Chính cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm. Trước khi đi vào tìm hiểu tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt, cần hiểu được như thế nào là tình huống truyện. Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết, là cái éo le, nghịch lý ở đời. Sự việc, câu chuyện “xảy ra” như thế mà ta cứ ngỡ không phải là như thế. Tình huống càng lạ thì truyện ngắn càng hay, càng hấp dẫn. Đề tài viết về nông thôn, về người nông dân hoàn toàn không có gì mới mẻ, có rất nhiều nhà văn cũng đề cập tới, nhưng sở dĩ Vợ nhặt trở thành truyện ngắn xuất sắc, độc đáo là vì tình huống được xây dựng trong truyện. Tình huống ấy phải nói rất lạ. Chính cái lạ ấy tạo nên một điều mới mẻ hấp dẫn của truyện ngắn này, và tạo nên tên tuổi Kim Lân.

Có thể thấy rằng tình huống “nhặt vợ” là một tình đầy kịch tính xưa nay chưa từng có, lạ và éo le. Cái lạ ở chỗ người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí là được vợ theo không. Tràng là một chàng trai ngụ cư, vập vạp, thô kệch với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi. Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm ngụ cư này. Thế mà hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Giữa cảnh đói khát nuôi thân chưa xong mà Tràng lại dám “đèo bòng” “rước cái của nợ đời ấy về”. Chính điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xầm xì bàn tán, thỉnh thoảng lại rung rúc vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc kệ những lời thầm thì, bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma” thay cho khách và tiếng quạ gào thê thiết từng hồi thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Tôi loáng thoáng hiện lên Chiều sương của Bùi Hiển, những câu chuyện ma quái buổi chạng vạng ở làng chài…rùng rợn, sởn gai óc. Rõ ràng cái đói đã len lỏi, đã thổi những hồi gió lạnh rợn xương mang mùi chết chóc phát tán khắp mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “ Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”

Tình huống lấy được vợ của Tràng còn mới lạ ở chỗ chỉ qua hai lần gặp gỡ chóng vánh, tình cờ cùng mấy câu nửa đùa nửa thật, vậy mà người đàn bà đồng ý theo Tràng về. Công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng dễ dàng nhanh chóng đối với Tràng. Có phải do người đàn bà ấy quá dễ dãi, chỉ với bốn bát bánh đúc mà bám lấy Tràng như thế? Khi con người ta đang đứng giữa bờ vực thẳm của sự sống và cái chết thì dù đó là một tia hi vọng mỏng manh được sống họ vẫn cố gắng bám víu, cố gắng níu giữ. Thị cũng vậy. Trong nạn đói năm 1945, người chết như “ngả rạ”, người sống “vật vờ”, lay lắt như những “bóng ma”, thị cũng không ngoại lệ “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đĩa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Lúc này thị quá mỏng manh, hệt cái cây khô thiếu nước sắp ngã qụy. Thị cố đưa tay ra bấu víu đời, bấu víu cuộc sống, mà nơi thị bấu víu vào lại là Tràng. Bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng…chuyện hi hữu hiếm thấy xưa nay.

Lạ là thế, Tràng “nhặt” được vợ còn mang nhiều tình tiết éo le. Tràng lấy được vợ, hưởng hạnh phúc lớn nhất của đời người giữa cảnh “ Tối sầm lại vì đói khát”, giữa lúc cái chết và sự sống ranh giới mong manh, tưởng âm dương không còn sự cách biệt. Chen vào hạnh phúc lứa đôi là nỗi lo chạy trốn cái đói, lo níu kéo sự sống. Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Vì thế, mấy bát bánh đúc đã thay cho trầu cau dẫn cưới. Một sự thật đáng buồn, thử hỏi nếu không có nạn đói liệu Tràng có lấy được vợ hay không? Mọi chuyện quá nhanh, đến nỗi chính Tràng- người trong cuộc cũng không khỏi ngỡ ngàng. Đưa vợ về nhà, nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng vẫn cứ “ngờ ngợ như không phải thế”. Với hắn tất cả sao như một giấc chiêm bao “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?” Cả Thị cũng vậy quá ư liều lĩnh đến với hắn, cái đói đẩy họ đến với nhau.

Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là tình huống oái oăm. Nên mừng hay nên lo cho đôi vợ chồng trẻ? Tình huống éo le làm mẹ Tràng- bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và ngỡ ngàng. Thái độ vồn vã khác thường của Tràng khiến bà lão “hấp háy hai con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “có việc gì thế vậy?”. Nỗi ngạc nhiên càng tăng dần khi bà lão thấy một người phụ nữ trong nhà mình, đang ngồi vân vê vạt áo xấu hổ, chào mình bằng u. Bà sững lại, hàng loạt câu hỏi hiện lên trong tâm trí bà…để rồi khi hiểu ra cơ sự, lòng bà quặn thắt, se lại vì thương con, bà “cúi đầu nín lặng” xót xa. Bà đau đớn vì chưa làm tròn bổn phận làm cha làm mẹ, đó là “người ta dựng vợ gả chồng cho con cái lúc nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này, còn mình thì…” Kim Lân miêu tả khá tài tình diễn biến độc thoại nội tâm của người mẹ thương con. Cũng như tâm trạng dằn vặt của Lão Hạc ( Nam Cao), không lo được đám cưới cho con trai. Nhưng đằng sau những bi quan, đau đớn, tủi hổ là những hi vọng, những ước mơ của bà mẹ quê, những câu chuyện vui được kể từ miệng bà cụ. nào là “ai giàu ba họ, ai khó ba đời…” sự lạc quan hiếm thấy.

Tình huống “nhặt” vợ quả thật mang nhiều nét bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc thị theo Tràng về không điều kiện. Trong cái hoàn cảnh này thì giá trị con người thật rẻ rúng, song dưới ngòi bút tài tình của Kim Lân nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Kim Lân đã đặt các nhân vật của mình vào khoảng sống mờ tối, lắt lay, nhà văn đã tìm được một cơ hội vô song để biểu hiện sự bất diệt của nỗi khát thèm được sống, được yêu thương và hi vọng. Niềm ao ước hạnh phúc không thể diệt trừ được cái đói hay sự u tối, nhưng nó cũng không bị diệt trừ. Niềm ao ước ấy cứ âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm và trở nên cảm động hơn, đáng quý hơn. Không cần dùng những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản to lớn. Bằng tình huống bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp nơi và chính nó làm giá trị con người hạ xuống đến mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, để được sống…Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Hình ảnh người đàn bà ăn “một chặp” bốn bát bánh đúc làm người đọc liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao, cũng vì đói mà bà đã ăn rất nhiều, rất nhiều cơm, để đêm về bội thực mà chết, cái chết tức tưởi. Còn gì thê thảm hơn khi đám rước dâu có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai khóc tỉ tê, “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”? Thật xót xa!

Có người ví truyện ngắn hay như một thứ quả có nhiều vỏ luôn luôn làm đứa trẻ háu ăn bị nhỡ tàu, mỗi lần bóc ra một lớp vỏ người đọc thở phào thế là xong mọi chuyện chắc là không phải chờ đợi thêm gì nữa thì một lớp vỏ mới lại hiện ra. Với Vợ nhặt của Kim lân ta thấy rõ điều đó, cái đói hoành hành, người chết như rạ, những tưởng người như Tràng chỉ biết đi làm mướn nuôi mẹ già, không mong gì hơn, thế mà cuối cùng y lại “nhặt” được vợ…Nhặt được vợ rồi cuộc sống hắn có nhiều chuyển biến, thay đổi, giữa lúc đói kém hình ảnh Việt Minh phá kho thóc, hình ảnh cờ đỏ đâu đấy thoáng qua trong tâm trí Tràng. Một cuộc cách mạng chăng? Cứ hết lớp vỏ này lại xuất hiện lớp vỏ khác đầy bất ngờ, lôi cuốn người đọc.

Chỉ một tình huống tưởng chừng như tầm phào nhặt vợ mà gây bao xôn xao, làm nhức nhối trái tim đọc giả bao thế hệ. Nghệ thuật xây dựng tình huống của Kim Lân quả thực bậc thầy. Ngay từ đầu đề đã mang nhiều kịch tính hứa hẹn một tình huống mới lạ, “Vợ nhặt” là một sự bị động, không có tính toán, không có chủ đích, như một sự tình cờ. Từ mở đầu với ý nghĩa như thế câu chuyện đã được xoay quanh tình huống bi thương ấy. Tình huống truyện có khi là những gì rất nhỏ rất bình thường nhưng dưới tài năng của nhà văn điều đó trở nên ý nghĩa hẳn. Các nhà văn chuyên viết truyện ngắn rất để ý đến việc xây dựng tình huống truyện, bởi đó như một phần của chìa khóa thành công. Thật vậy, một chiếc lá thường xuân, qua mấy đêm mưa bão vẫn xanh bên kia tường, đã cứu sống một cô gái, đã giành lại sự sống từ tay tử thần. O.Henry viết rất nhẹ nhàng, nhưng đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó quên. Nhà văn xây dựng tình huống truyện xoay quanh một chiếc lá mà “không bao giờ bay lất phất khi có gió thổi”, đó là kiệt tác nghệ thuật của người họa sĩ già Behrman, “Behrman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu” lúc nào “giá vẽ với khung vải trống trơn, suốt hai mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác.”. Và chiếc lá thường xuân “Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt một đêm dài, vẫn còn có màu xanh thẫm gần cuống, nhưng với phần rìa te tua pha màu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.” như một niềm tin vào cuộc sống đã giúp cô gái đa sầu đa cảm vượt lên nỗi đau của bệnh tật, tiếp tục sống. Một tình tiết như vậy thôi, nhưng đã đưa O. Henri cùng Chiếc lá cuối cùng trở thành bất hủ. Hay như Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, tình huống mở ra chỉ là một bức ảnh để làm lịch do cấp trên giao cho Phùng đi thực hiện tại vùng biển nọ. Sau mấy ngày phục kích cuối cùng nhiếp ảnh gia cũng chộp được những thước phim tuyệt vời, đến đây tình huống truyện mới nở bung ra. Thì ra bức tranh nghệ thuật Phùng chụp được ngoài khơi và hiện thực cuộc sống trước mắt Phùng là những điều đối lập hoàn toàn. Hiện thực trần trụi với một gã đàn ông to lớn cứ “ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn”, xem việc đánh vợ để giải tỏa những bực tức của mình. Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên vai cặp vợ chồng biến người chồng trở thành kẻ vũ phu. Người vợ vì thương con mà nhẫn nhịn chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không hề biết đã làm tổn thương tâm hồn của đứa con. Cậu bé thương mẹ, bênh vực mẹ thành ra căm ghét cha mình. Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại đơn giản trong cách nghĩ. Anh khuyên người đàn bà bỏ chồng là xong, mà không biết được rằng “Đám đà bà hàng chài ở thuyền luôn cần phải có người đàn ông chèo chống khi phong ba, để cùng nuôi con. Đàn bà ở thuyền chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Trong tình huống truyện này, cái nhìn và cảm nhận của nghệ sĩ Phùng cùng chánh án Đẩu là khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống, về con người. Như một thứ nước rửa kì diệu câu chuyện ở tòa án huyện giúp chúng ta hiểu thêm nhiều điều và rút ra bài học về cuộc sống và con người: một cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Bên trong cảnh đẹp như mơ, là bao ngang trái, nghích lý của đời thường. Phùng thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì còn ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại rất gần. Qua đó giúp ta hiểu thêm về bản chất, về tầm quan trọng của tình huống và cách xây dựng tình huống truyện của nhà văn. Tình huống truyện là yếu tố làm nổi bật chủ đề của tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật. Trở lại với Vợ nhặt, Kim Lân đã thành công khi xây dựng nên một tình huống truyện độc đáo diễn tả hết cái thê thảm của người nông dân, thể hiện sự xót xa, ai oán trước thân phận của họ. Câu chuyện mở ra vào một buổi chiều chạng vạng và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa”. Khi bắt đầu truyện ta chỉ gặp một anh Tràng bước thấp bước cao trên đường làng dưới ánh nắng mờ nhạt của một gầm trời đầy đói khát, nhưng đến lúc kết thúc Tràng đã có một mái ấm gia đình để vun xới, để cố gắng xây đắp.

Viết về nông thôn và người nông dân nghèo, ta bắt gặp không ít nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…mỗi một ngòi bút là một cách viết sắc lẻm khác nhau. Nông thôn hiện lên tan tác, tiêu điều, người nông dân chịu bao đắng cay tủi khổ, cố sống cố giữ lại cho mình một chút trong sạch cuối cùng, nhưng rồi tất cả như bị tha hóa, như rơi vào đừng cùng không lối thoát. Một Lão Hạc già nua, chọn cái chết để giữ lại cho con trai mảnh vườn, tài sản cuối cùng lão còn lại sau bao ngày vật lộn với bệnh tật, đói khát. Một Chị Dậu vùng chạy, ngoài trời tối đen như mực, như tiền đồ của chị. Không lối thoát, bế tắc, nhưng đó chỉ là những người nông dân trước cách mạng. Từ khi Đảng Cộng sản thành lập, ngọn cờ Cách mạng được giương cao, người nông dân đã biết đứng lên đi theo Đảng, theo Cách mạng để giải thoát cho mình. Trong tác phẩm Vợ nhặt tuy Kim Lân không tập trung xoáy sâu vào Việt Minh vào đánh Nhật phá kho thóc…nhưng ở cuối tác phẩm ông đã mở ra một tình huống mới… “ Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” Kết thúc như mở ra một chân trời mới tươi sáng hơn cho cuộc sống của người nông dân.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không dễ phỏng theo, giản dị vô cùng mà sao cứ ánh lên chất hào hoa Kinh Bắc, Kim Lân đã xây dựng một Vợ nhặt sống mãi với thời gian. Chỉ cần thiếu đi một chút tinh tế người ta sẽ dễ dàng bỏ qua một tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ ho, những bước chân bước vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…

Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩa của tình huống lại mang một giá trị nhân bản, tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Vì thế mà tác phẩm như một ngọn lửa nhỏ lấp lánh tình yêu thương nồng ấm và tác phẩm cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu, tuyệt vời đức hi sinh của những người nông dân Việt Nam . Dù đứng trước cảnh một mất một còn của mạng sống vẫn cưu mang, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Và cái đọng lại cuối cùng vẫn là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa và yêu thương của nhà văn, là niềm tin mà dường như ông muốn gửi trọn đến cho chúng ta qua thiên truyện ngắn. Ai đó nói rằng: Hai người cùng cúi xuống một người chỉ thấy vũng nước người kia thấy cả bầu trời đầy sao.

Truyện ngắn là thể loại năng động đã “bấm huyệt” đời sống bằng cách sáng tạo các tình huống nghệ thuật đặc sắc để phản ánh sự đa dạng và phức tạp của đời sống. Có người ví tiểu thuyết như một căn phòng đầy đủ tiện nghi, ấm cúng, còn truyện ngắn như một bức tranh đẹp duy nhất mà người chủ có óc thẩm mỹ biết lựa chọn và bức tranh đó là Thiếu nữ bên hoa huệ hoặc Người đàn bà không quen biết.

Phân tích Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng (mẫu 15)

Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm bật nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tư tưởng, tính cách của các nhân vật và chủ đề của tác phẩm là một điều có ý nghĩa then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ được tổ chức chung quanh một tình huống như thế, và Vợ nhặt của Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.

Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình huống nhân vật Tràng, một anh nhà nghèo xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), giữa lúc đói khát lại lấy được vợ.

Đó là một điều lạ. Lạ vì hai lí do.  Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng, nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ!

Nhưng điều tưởng không thể nào có được, lại đã xẩy ra, đã trở thành hiện thực. Bởi vì, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá, thì ai thèm lấy Tràng. Và đây là “vợ nhặt”, có cần cheo cưới gì đâu. Năm đói thế nào cũng xong, có thế người như Tràng mới lấy được vợ.

Tình huống này dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm cư ngụ, của bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và của chính Tràng nữa. Như vậy, tình huống này đã làm cho câu chuyện có thể triển khai, phát triển dễ dàng bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dần:

Cảnh xóm ngụ cư xì xào bàn tán khi Tràng dẫn vợ về nhà.

Cảnh buổi tối bà cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này đến sự ngạc nhiên khác,..

Chuyện có vợ bất ngờ với cả chính Tràng nữa, khiến anh ta không thế nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về báo cho mẹ biết và ngay cả sáng hôm sau khi đã là vợ chồng (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”).

Tình huống trên, đồng thời hết sức éo le. Đó là chuyện nên vui hay nên buồn nên mừng hay nên lo?

Chính điều này lại thúc đẩy cho câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể khắc họa tâm trạng nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái tình huống hết sức éo le ấy, ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi, vui mừng, lo sợ ở trong tâm trạng của mọi người:

Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ta và cũng lo cho anh ta.

Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thương vừa tủi, vừa lo cho con.

Chính Tràng cũng vừa vui vừa “chợn”: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

Tình huống trên dẫn đến cái hạnh phúc thật mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của vợ chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm chết chóc, với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới (“Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”). Hạnh phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy. Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà không dám nhìn nhau… Tình huống đó đà tạo cảm hứng, tạo cảnh, tạo chi tiết để nhà văn có thề viết nên những trang thật cảm động về câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện thực và cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.

Tình huống “Vợ nhặt” độc đáo và hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Tình huống ây không chỉ tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai và phát triền dễ dàng, tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay trong trận đói khủng khiếp nhất.

Bài viết liên quan

150 lượt xem